Skip to main content

14. GIAI ĐOẠN CHIẾN TRANH -TRÂN CHÂU CẢNG

 PHẤN THỨ I


                     Một buổi sáng , sau khi Hull chuyển bản văn thư ngoại giao đi rồi , ông Bộ Trưởng Quốc Phòng Henry Stimson điện thoại đến để hỏi Hull đã gửi “bản tạm ước” đến cho người Nhật chưa . Ông Ngoại Trưởng trả lời ngắn gọn rằng “Tôi đã rửa tay gát kiếm không còn dính dáng đến chuyện này nữa . Bây giờ đến phần của ông và Knox – Lục quân và Hải quân lo liệu” .


  Stimson lại điện thoại đến Roosevelt ở Tòa Bạch Ốc , tỏ ra quan ngại về những báo cáo có liên quan đến một lực lượng viễn chinh lớn của Nhật đã rời Thượng Hải để tiến sâu về vùng Nam Á . Ông cũng cho đây là một sự đe dọa cho nền an ninh chung của toàn vùng Nam Á và việc nên làm trước mặt là báo động ngay Trung Tướng Douglas Mac-Arthur , tư lệnh lực lượng Hoa Kỳ tại Viễn Đông đang đồn trú tại Phi Luật Tân để cho ông ta cảnh giác đề phòng mọi bất trắc có thể xảy đến . Roosevelt đồng ý ngay và cho đó là một cao kiến “cẩn tắc vô áy náy” mà . Lúc 9 giờ 30 sáng , Stimson cho vời Thiếu Tướng Leonard T.Gerow , chỉ huy tham mưu trưởng Phòng Hành quân ; cùng Bộ Trưởng Hải quân Frank Knox và Đô Đốc Harold Stark , tham mưu trưởng Hải quân , có mặt tại văn phòng Bộ Quốc Phòng để cùng nhau nghị sự .


  Thêm một lần nữa quân đội được khuyến khích rằng mọi biến động nên tạm thời hoãn lại thêm một thời gian càng lâu càng tốt . Stimson bảo ông cũng muốn như thế lắm nhưng chẳng biết tình hình có cho phép mình “tọa thủ” mà chờ hay không .


  Cuối cùng thì một bức điện tín mang nội dung cảnh báo chiến tranh gửi ngay đến Tướng MacArthur . Tương tự với bức điện tín này , một bức khác được gửi đến Tướng Walker C.Short , tư lệnh lực lượng Hoa Kỳ ở quần đảo Hạ Uy Di . Nhưng ra lệnh cho Short chớ nên vọng động e náo loạn lòng dân . (Quân đội đồn trú tại Trân Châu Cảng sau này lại mĩa mai rằng “Lệnh gì kỳ cục , thà là đừng có lệnh lạc gì thì hay hơn !”) Tướng Short nghĩ rằng mình phải cấp tốc truyền mật lệnh đề cao cảnh giác những hành động phá hoại đến từ bên ngoài . Ông gửi đề nghị này về Hoa Thịnh Đốn , nhưng hình như chẳng có ai ở đó chịu khó ngồi đọc cho nên Tướng Short không dám tự chuyên ban mật lệnh .


  Đô Đốc Stark cũng ghi vội vài dòng thông điệp gửi ngay cho Đô Đốc Thomas C.Hart ,Tư lệnh hạm đội Hoa kỳ tại Thái Bình Dương đóng tại căn cứ Phi Luật Tân và Đô Đốc Husband E.Kimmel ở Hạ Uy Di . Bản thông điệp của Stark nói rõ cuộc thương thuyết không thành và Nhật Bản đang xua quân tiến sâu về miền Nam châu Á . Ông khuyên họ nên cẩn thận đề phòng mọi diễn biến xấu có thể xảy ra , và xảy ra rất sớm .


  Mặc dù những mật lệnh được đánh gửi đi khắp nơi nhưng trên bàn thương thuyết , bề mặt của nó vẫn tiến hành bình thường theo nguyên tắc ngoại giao . Nomura và Kurusu được triệu vào Tòa Bạch Ốc cùng ngày để gặp Tổng Thống Roosevelt . Ở đây Tổng Thống cho biết ông lúc nào cũng hy vọng tìm ra được một giải pháp hòa bình chung cho hai quốc gia . Nhưng sự hiện diện của quân đội Nhật ở Đông Dương và việc ồ ạt tiến chiếm vùng Nam Á là những hành động khiêu khích ,  chống đối lại cuộc thương thuyết . “Nó như một gáo nước lạnh tạt vào mặt chính phủ và nhân dân Hoa Kỳ”


  Rạng sáng hôm sau , sở tình báo Hải quân Hoa Kỳ phát giác một bức điện tín quan trọng từ Đông Kinh gửi đến Tổng lãnh sự Hạ Uy Di là Tướng Kita . Bức điện ấy đã gửi đi 9 ngày rồi và sau khi giãi mã , nó mang nội dung như sau :


  “… Trong tình trạng khẩn cấp (trường hợp quan hệ ngoại giao bị cắt đứt) và mọi liên lạc thông tin quốc tế bị gián đoạn , những ẩn từ sau đây sẽ được thay thế trong ngôn ngữ hàng ngày của những bản tin qua làn sóng ngắn :


  * Quan hệ Nhật-Mỹ căng thẳng có thể đi đến chiến tranh = Gió Đông và mưa .


  * Quan hệ Nhật-Nga = Gió Bắc và trời nhiều mây .


  * Quan hệ Nhật-Anh = Gió Tây trời trong sáng .


  Những bản tin mật này sẽ được loan đi ở đoạn giữa và cuối của chương trình dự báo thời tiết hàng ngày , mỗi câu sẽ được đọc lại hai lần để dễ nhận . Khi nhận được bản điện văn này , đọc xong hãy xóa ngay ……”


  Phát giác này đã gây xôn xao trong chính trường Hoa Thịnh Đốn . Ngành tình báo được lệnh báo động ngày đêm theo dõi làn sóng phát thanh Đông Kinh , lục lạo tìm trong đống điện tín trao đổi giữa Đông Kinh và các nơi . Những điện văn mà họ coi như chẳng có gì quan trọng nên vẫn chưa được giãi mã còn để nằm cả chồng trên bàn giấy , lẫn lộn trong đó còn có những bản báo cáo mật của Yoshikawa mà “nhân viên tình báo Hoa Kỳ” đã “bỏ quên” không thèm đếm xỉa tới .


  Sáng sớm ngày 28 tháng 11 , Bộ Trưởng Quốc Phòng Stimson chạy ùa vào phòng ngủ Tổng Thống Roosevelt trong lúc Tổng Thống còn đang nằm thả hồn theo giấc ngủ muộn trên giường . Stimson đánh thức Roosevelt dậy với những bản tin mới nhất về việc Nhật tiến quân sâu vào vùng Nam Á . Ông bàn với Tổng Thống nên ra lệnh cho lực lượng đang đồn trú tại căn cứ B-17 , Phi Luật Tân mở cuộc tấn công ngay vào những cánh quân Nam tiến của Nhật . Roosevelt bình tỉnh hơn , nên sau khi hội ý với Hội Đồng Chiến Tranh họ đi đến một quyết định chung là không nên nôn nóng , chỉ cảnh cáo Nhật Bản rằng chúng ta “sẽ ra tay” để cho chúng biết mà xét lại hành động của mình . Roosevelt liền gửi ngay đến Nhật Hoàng một lá thư ngắn , lấy tình riêng để giải bày , rằng hãy tạo điều kiện thuận lợi để tái tạo hòa bình còn hơn gây cảnh tương tranh bất hòa . Nếu Nhật có thiện ý đi tìm hòa bình thì quả là một việc tốt lành cho hai nước , nếu ngược lại thì Hoa Kỳ bắt buộc phải hành động .


  Đây quả là hảo ý của Mỹ , Nhật Hoàng nghĩ như thế nên ra lệnh xem xét lại hiện tình và tâu lại cho ông rõ . Sáng ngày 29 tháng 11 , lúc 9 giờ 30 , tất cả đều có tề tựu đầy đủ tại cung điện . Thủ Tướng Tojo và bốn ông bộ trưởng , chủ tịch hội đồng cơ mật Hoàng Gia Hara . Đây là một buổi hội đàm hơn là một phiên họp cơ mật , đây không có người chủ trì và cũng chẳng có một quyết nghị nào để bàn cãi . Nam Tước Wakatsuki , một nhân vật đối lập với phe quân phiệt muốn biết rõ thời hạn chót của cuộc đàm phán , ông hỏi “Lẽ nào chúng ta không còn thời gian thương thuyết nữa hay sao ?”


  Ngoại trưởng Togo lắc đầu tỏ vẻ ngao ngán “Có thêm thời gian cũng trở thành vô ích mà thôi !” . Thủ Tướng Tojo đồng ý với nhận định này vì ông nghĩ “không còn hy vọng bằng con đường đàm phán” Ngay từ lúc này , đường lối ngoại giao đã khép lại , nó chỉ còn có mỗi một chọn lựa duy nhất là “bắt tay vào chiến dịch” .


  Wakatsuki thắc mắc hỏi “Chúng ta khai chiến trong khi cuộc thương thuyết vẫn chưa kết thúc ư ?”


  Tojo từ tốn trả lời “Cho tận đến ngày hôm nay , chúng ta vẫn nỗ lực cố tìm cho được một giải pháp tốt cho dù phải chịu nhượng bộ đến mức không còn có thể nhượng bộ được mà họ vẫn chưa hài lòng thì dù có sử dụng đến vũ lực , đường đường chánh chánh mà khai chiến , chúng ta cũng chẳng có gì để lấy làm xấu hổ” .


  Câu trả lời không làm cho Nam Tước bằng lòng chút nào . Cũng như Kido thường cho rằng “phải nhẫn nại chịu đựng” có lẽ còn tốt hơn đi đến chiến tranh .


  Tướng Suzuki lại nêu lên thắc mắc “Nếu đi theo sách lược nhẫn nại chịu đựng rồi cuối cùng cũng phải giải quyết bằng chiến tranh thì làm sao đây ? Đến lúc đó cơ hội chiến thắng của chúng ta sẽ không còn nữa !”


  Nam Tước Wakatsuki lòng đầy thắc mắc muốn nhân cơ hội này hỏi cho ra lẽ nhưng Tojo lại lên tiếng “Các người hãy tin tưởng những gì chúng tôi đã trình bày . Chúng ta cho quân đội chiếm giữ những khu vực ảnh hưởng (vùng Đông Nam Á) và tận dụng tài nguyên của các xứ ấy , tối cần thiết là dầu . Ba năm sau chúng ta sẽ có đầy đủ và mở rộng thêm tầm ảnh hưởng . Về xăng dầu sử dụng cho máy bay và hạm đội , chúng ta bằng cách nào đó có thể xoay sở được , về phần sắt và thép , năm vừa rồi sản xuất được 4 triệu 760 nghìn tấn . Chúng ta sẽ nâng con số này lên gấp mấy lần trong vòng 3 năm kế tiếp” .


  Đô Đốc Keisuke Okada chợt lên tiếng “Ông nói gì mà tôi chẳng hiểu chi cả ! Còn cuộc chiến bên Châu Âu thì sao ?”


  Tojo bình tỉnh trả lời rằng Nhật , Đức và Ý là một khối liên hiệp vì họ đã ký một thỏa hiệp chung . Nếu cần thiết thì Nhật cũng có thể mang lực lượng phối hợp vớ Đức “để nghiền nát Anh Quốc” . Kế đến là Ấn Độ và quay lại mặt Bắc , hiệp lực cùng nhau phá nát thế giới đỏ Liên Xô .


  Khi bàn luận kế sách thì Tojo thao thao bất tuyệt nhưng những người ngồi nghe như Đô Đốc Okada đây , ông cảm thấy có một cái gì đó bất ổn . Ông không nghĩ là kế hoạch “đại qui mô” này có cơ may thành công được và chiến dịch xuôi Nam để tìm tài nguyên cũng thế , nó sẽ không đi đến đâu cả vì bất cứ một chuyện gì , khi bàn định kế hoạch thì rất dễ ai mà chả nói được nhưng đến lúc bắt tay vào việc rồi thì mới thấy thiên nan vạn nan .


  Một thực tế đáng ngại như thế mà câu trả lời của Tojo lại quá mơ hồ “Tiềm lực yếu kém chúng ta có thể khéo léo giải quyết . Tất cả những thứ khác cũng sẽ đáp ứng được . Tôi tin rằng chúng ta có thể xoay sở dễ dàng thôi . Xin hãy đặt hết niềm tin vào chúng tôi !”


  Okada nêu lên nhận xét “Vẫn còn nhiều nghi vấn không thể chắc chắn được thưa Thủ Tướng . Đồng ý rằng chúng ta theo kế hoạch mang quân đi chiếm thuộc địa và đoạt lấy tài nguyên . Nhưng làm thế nào để giữ được nguồn nguyên liệu ấy chứ ? Đó là một công việc không đơn giản , rồi đây chúng ta sẽ cạn kiệt tất cả tài nguyên thiên nhiên”


  Tojo trả lời không chút đắn đo “Chúng ta cứ tiếp tục theo nguyên tắc ưu tiên để chiến phần tiện nghi !”


  Okada quay sang nhìn về phía những vị sĩ quan chỉ huy Hải quân và đưa ra câu hỏi nếu Hải quân có đủ sức mạnh để đánh bại Hoa Kỳ không .


  Thủ Tướng Tojo cũng là người nóng lòng muốn biết câu trả lời thẳng thắn của cánh Hải quân , ông cho biết Nhật Bản sẽ đi theo chiến lược “vết dầu loang” , tiến chiếm từng mục tiêu một và chuẩn bị cho một cuộc chiến trường kỳ , chiến thắng sau cùng rồi cũng sẽ đến với chúng ta .


  Nhìn vẻ mặt Okada vẫn còn nặng mối hoài nghi cho sự giải thích của mình , Tojo hơi giận , giọng lạc đi như mất hết bình tỉnh , ông nói “Giả thử như chúng ta không giải quyết theo đường lối chiến tranh thì kết quả của nó sẽ ra sao ? Nhật Bản không bao giờ chịu phục tòng Anh và Mỹ . Cho đến nay chúng ta đã hy sinh 160 nghìn quân nhân ở lục địa Trung Hoa và hơn hai triệu người phải sống trong nhục nhằn đau khổ . Sẽ không còn khổ đau ! Sẽ không còn cảnh cười ra nước mắt ! Nếu chúng ta cứ tiếp tục như thế này thì chỉ trong vòng 3 năm nữa thôi cả một đế quốc Nhật Bản này không còn cơ hội nào để chiến đấu nữa . Chúng ta đã bỏ phí quá nhiều thì giờ quí báu cho những toan tính và lo nghĩ không cần thiết !”.


  Okada giở giọng châm biếm “Chúng ta cố gắng làm hòa với Hoa Kỳ để có thể tiết kiệm được nhiều xương máu . Và chúng ta xây dựng khối thịnh vượng chung Đại Đông Á cũng nhằm mục đích này . Dù quốc gia ta đã nhập vào một con số gạo và ngũ cốc khổng lồ từ các nước này nhưng vẫn còn đó quá nhiều đồng bào còn nghèo xơ nghèo xác . Chúng ta muốn giúp đỡ và nâng đỡ họ . Công ăn việc làm thì quá khan hiếm , muốn cho họ vui thì chúng ta phải chịu hy sinh làm một việc gì đó . Xuất một số tiền từ chứng khoán tạm thời của quân đội để mua nguyên liệu , đó là một việc bất công không đáng kể chứ ?”


  Tojo bỏ ngoài tai lời nhạo báng của Đô Đốc Okada , ông nói “Tất cả còn tùy thuộc vào sự khôn khéo của chúng ta , làm thế nào để có thể tạo được sự cảm thông của quần chúng khiến cho họ cảm thấy thoải mái để hòa nhập vào cộng đồng bản xứ . Khi khởi thủy tất nhiên cuộc sống của họ không khỏi gặp nhiều khó khăn bối rối , nhưng tôi bảo đảm chẳng bao lâu họ sẽ nhìn thấy chân giá trị của khối thịnh vượng chung Đại Đông Á” .


   Phiên họp tạm hoãn lại một tiếng để giải lao . Khi mọi người trở lại phòng họp thì Nhật Hoàng Hirohito lên tiếng “Chúng ta đang phải đối diện với những tháng ngày đen tối và cực khổ nhất , các người đã vì ta và giang sơn mà đến đây để bàn bạc . Nên nhớ , đây là một cuộc họp mặt trong không khí thân mật để trao đổi ý kiến với nhau . Và cần nhất là phải nói hết , nói tất cả những gì mình suy nghĩ”.


  Nam Tước Wakatsuki nói “Chúng ta không phải lo lắng cho tinh thần quả cảm của dân tộc mình , điều tối quan trọng là phải biết tính toán suy xét kỷ càng xem tiềm lực của chúng ta có thể đáp ứng được một cuộc chiến dai dẳng không . Dù được giải thích lúc ban sáng nhưng sao tôi vẫn còn lo ngại trong lòng về vấn đề này”


  Đến đây thì Thủ Tướng Tojo nhắc lại cho Nhật Hoàng biết rằng những gì ông đã trình bày buổi sáng là căn cứ theo một quan điểm chung của Nội Các chính phủ và Bộ Tư Lệnh Tối Cao .


  Okada chợt lên tiếng “Nhưng dù sao nó cũng chẳng thuyết phục được tôi !”


  Cựu Thủ Tướng Konoye , người thuộc nhóm ôn hòa đã từng bị phe quá khích ám sát hụt , từ sáng đến giờ ngồi im trong phòng họp để lắng nghe , bây giờ mới phát biểu “Tôi ngạc nhiên không biết nó có cần thiết để dùng giải pháp chiến tranh một khi cuộc thương thuyết bất thành hay không . Tôi nghĩ rằng mình có thể tìm ra được một giải pháp khác và vẫn giữ y như nguyên trạng . Hay nói cách khác là bằng lòng với tình trạng nhẫn nại chịu đựng”


  Đô Đốc Mitsumasa Yonai cất tiếng sang sảng từ cuối góc phòng “Tôi vốn là con người ít học , ăn tục nói phét đã quen nên không thạo ngữ từ để nói lên quan điểm của mình . Nếu quí vị thông cảm thì tôi sẽ nói , e rằng sự cố gắng của quí vị để tránh bị cái nghèo đói đến chậm thì nó sẽ đến và đến ngay tức khắc !”


  Chỉ có hai Tướng Nobuyuki Abe và Senjuro Hayashi tỏ ra hết sức tin cậy chính phủ Tojo . Buổi họp sắp đi đến kết thúc , nhưng vì Wakatsuki vẫn nhì nhằng muốn đưa ra một vấn đề khác . Tojo cố tình làm ngơ nhưng vị Nam Tước cứng cỏi này vẫn lớn tiếng “Nếu sự tồn tại của chúng ta đang bị đe dọa , chúng ta nhất định phải chiến đấu , thậm chí dù biết trước là sẽ thua cũng phải chiến đấu . Nhưng đàng này lại thúc bách chính sách quốc gia vào một lý tưởng mơ hồ . Ví dụ , tổ chức khối thịnh vượng chung Đại Đông Á hoặc ổn định khối Đông Á . Để thỏa mãn được một lý tưởng xa vời này , Nhật phải tận dụng hết tất cả sức mạnh của quốc gia . Đó mới thật là nguy hiểm , tôi xin quí vị hiện có mặt nơi đây hãy suy nghĩ kỹ lại “


  Tojo vẫn giữ thái độ bướng bỉnh , ông lặp lại rằng vấn đề này đã được Nội Các và Bộ tư lệnh tối cao mang ra mỗ xẻ bàn thảo rất kỹ . Họ đã tỉ mỉ vẽ thành kế hoạch cho một cuộc chiến trường kỳ , nơi nào có đủ khả năng cung ứng cho một chiến trường mênh mông , khi nào thuận lợi để mở màn cuộc chiến và bao giờ thì chấm dứt . Bao giờ thì chiến tranh chấm dứt ? Tojo nhấn mạnh “Thứ nhất , kết quả của nó còn tùy thuộc vào trận tấn công đầu tiên thình lình nhưng mang tính cách quyết định ; thứ hai , có thể được giải quyết theo sự hòa giải đến Liên Xô hoặc Tòa Thánh Vatican” .


  Đến đây thì những người từng tỏ ra chống đối với Tojo lại không có vẻ gì lưỡng lự nữa . Kido là người cả ngày không nêu lên ý kiến gì , chỉ ngồi nghe và suy gẫm . Ông bụng bảo dạ “tình hình này cũng chưa đến nổi nào” . Uy thế của Thiên Hoàng đã bị lung lay , chiến tranh không thể nào tránh khỏi và sự tồn vong của Nhật Bản lại đặt trọn vào câu “cơ Trời vận nước”.


  Đã hơn 4 giờ chiều nhưng Tojo vẫn còn có mặt ở phủ Thủ Tướng . Ông cho triệu tập một phiên họp khẩn , chỉ trong buổi chiều ấy họ đã thông qua một quyết định chung là cảnh báo với Hitler và Mussolini : cuộc thương thuyết Nhật-Mỹ chắc chắn sẽ đi đến thất bại và chiến tranh sắp xảy ra .


  Ngoại Trưởng Togo rất muốn biết ngày giờ quyết định nên ông quay ra hỏi Tham mưu trưởng Hải quân Nagano . Ông Bộ trưởng Tài chánh cũng lo ngại không ít , vì thị trường chứng khoáng sẽ tụt dốc thãm hại ngay trong những giờ phút chiến tranh khởi điểm ; nếu biết rõ ngày giờ đích xác của cuộc tấn công thì mới có thể kiềm hăm được cơn bão của thị trường chứng khoáng .


  Nagano bất đắc dĩ mới ậm ừ đáp “Vâng . Thế này nhé , giờ quyết định  …” Ông lại hạ thấp giọng “.. là ngày 08 tháng 12” .


  Nagano giọng vừa dứt thì cả phòng họp xôn xao , Tojo dù là đương kim Thủ Tướng cũng không ngoại lệ , bản tin nóng hổi này làm cho ông ngẫng người ra giây phút . Liếc nhanh vào chiếc đồng hồ đeo tay để nhìn ngày tháng rồi ông quay sang Ngoại Trưởng Togo bảo nhỏ “Vẫn còn một ít thời gian cho ông , hãy khéo léo trong việc ngoại giao tạo điều kiện thuận lợi cho chúng tôi dễ dàng dành lấy chiến thắng , ông nhé !” (Cho đến lúc này Thủ Tướng Tojo chỉ mới biết việc Nhật tiến quân xuống chiếm Mã Lai và Phi Luật Tân . Trận không tập Trân Châu Cảng ông chưa hề nghe qua bao giờ . Đến lúc được người ta cho biết thì chi tiết ra sao Tojo cũng không được rõ).


  Togo gật đầu “Tôi hiểu . Nhưng chúng tôi có thể thông báo tin này cho đại diện của mình ở Hoa Thịnh Đốn (Kurusu và Nimura) không ?”


  Tojo chưa trả lời thì Togo lại quay sang hỏi Nagano “Những tùy viên quân sự đã được thông báo rồi chứ ?” , Nagano “Chúng tôi vẫn chưa cho họ biết gì cả” .


  Tojo không hiểu tại sao Nagano lại có những cử chỉ ngôn ngữ lập lờ khó hiểu như thế . Máu nhà binh đã trở lại với vị Thủ Tướng , ông đâm cáu nên xẳng giọng nói lớn “Vậy thì thế nào , tôi chả hiểu gì cả”


  Cuối cùng rồi thì Nagano mới chịu giải thích cho mọi người biết , ông nói bằng một giọng chắc nịch đầy tự tin “Chúng tôi sẽ mở một trận không tập bất ngờ vào đất địch !” Kế đến là phụ tá của ông , Phó Đô Đốc Seiichi Ito đứng lên giải thích rằng phía Hải quân muốn việc thương thuyết vẫn cứ tiếp tục cho đến khi nào chúng tôi khai chiến . Có như thế mới gây kinh ngạc hoàn toàn cho kẻ thù .


  Ngoại Trưởng Togo cố gắng lắm mới dằn lòng mình lại được . Ông đã giữ được bình tỉnh khi tuyên bố rằng Nhật Bản không nên có một hành động bất minh như thế nếu không muốn quốc tế nhìn mình bằng đôi mắt mất thiện cảm . Đường đường chính chính khiêu chiến với Hoa Kỳ mới là bậc quang minh chính đại . Càng nói Togo càng to tiếng , và đến lúc ông không còn dằn lòng được nữa , giọng ông trở nên đứt quãng , rằng kế hoạch của Hải quân là “hoàn toàn không chấp nhận được” vì đấy là “không tôn trọng công pháp quốc tế” . Ấy là một việc không thể nào tưởng tưởng ra được khi Nhật Bản “có một hành động thiếu tinh thần trách nhiệm , có thể gây tổn thương đến danh dự và uy tín của quốc gia” .


  Nói đến đấy thì Togo viện cớ phải cáo từ vì có một cuộc hẹn quan trọng , ông đề nghị hoãn lại phiên họp rồi kéo ghế đứng dậy nhanh nhẹn bước ra khỏi phòng . Ito vội hỏi vói theo rằng có nên thông báo tin này đến đại sứ Grew không . Togo chỉ đáp cộc lốc “Không” rồi khuất dạng sau cánh cửa .


  Ông về thẳng văn phòng làm việc soạn sẳn một bức điện văn để  đánh gửi đi Bá Linh và La Mã cho kịp tối nay và thêm một bức đến Đại Sứ Hiroshi Oshima (ở Đức) .


  Lạ một điều là Togo không ra lệnh cho Oshima yêu cầu Đức tuyên chuyến trong trường hợp Mỹ và Nhật đánh nhau , mà chỉ hỏi ý của Đại Sứ Ott rằng nếu hoàn cảnh chiến tranh đưa đẩy và Nhật đi đến tuyệt lộ , Đức sẽ ra tay giúp đỡ người bạn đồng minh này không ? Ott trả lời không cần suy nghĩ “Chúng tôi sẽ giúp các bạn tất cả những gì chúng tôi có thể”


  Bức điện tín gửi cho Oshima đã bị cơ quan tình báo Hải quân Hoa Kỳ chận được và chuyển đến tay Roosevelt sau khi đã giải mã . 

  

  

  

  

  Phần thứ 2


  Đông Kinh sáng ngày 30 tháng 11 , Thủ Tướng Tojo đọc một bài diễn văn đầy giọng điệu khiêu khích , ông tuyên bố rằng Tưởng Giới Thạch là một diễn viên ca múa theo những điệu nhạc do Anh và Mỹ chỉ đạo , và Anh và Mỹ là những kẻ rất thích việc thừa nước đục thả câu . Khao khát của họ là khuấy động Á châu để cho tình trạng càng thêm rối rắm , anh em trong nhà trở mặt đánh lại với nhau . Đây là thủ thuật lợi hại của hai cường quốc Anh và Mỹ , bởi vậy chúng ta cần phải sáng suốt để loại bỏ âm mưu của họ , phải vùng lên chống phá đến cùng . Nhật Bản quyết định chung vai sát cánh với cộng đồng Á Châu đòi lại công bằng lẽ phải . Chiến thắng sau cùng ắt sẽ về tay chúng tôi , về tay cộng đồng Á châu . Vì bọn họ không có quyền hạn nào để nhúng tay vào lãnh thổ riêng của chúng ta trong khi lãnh thổ này đã có sự phò trì của đấng Thượng Đế tối cao .


  Chỉ vài tiếng đồng hồ sau các tờ Nhật Báo ở Hoa Kỳ đã cho chạy bản tin đặc biệt với đầy đủ nguyên văn bài diễn văn của Thủ Tướng Tojo . Cũng bởi nạn cạnh tranh của một số Nhật Báo nên nạn thổi phồng phóng đại cho thêm sức hấp dẫn người đọc không tránh khỏi , họ thi nhau thêm bớt tùy ý và dịch thuật cẩu thả , lệch lạc đi ý nghĩa của bài diễn văn . Và tờ Times còn cho biết thêm có thể Tổng Thống Roosevelt sẽ trở lại Tòa Bạch Ốc ngày mai , dù ông đang nghỉ lễ Tạ Ơn Chúa ở Warm Spring thuộc bang Georgia .


  Tối hôm ấy Kurusu điện thoại về Đông Kinh báo với Kumaichi Yamamoto rằng “Tổng Thống sẽ trở lại làm việc vào ngày mai . Ông ra rất nóng lòng muốn trở lại Tòa Bạch Ốc ngay” .


  Yamamoto lại hỏi “Bên ấy có sự kiện gì đáng kể không ?”


  Kurusu đáp “Báo chí họ đăng tải bài nói chuyện của Thủ Tướng . Và nó đã gây tác động mạnh ở đây . Thật là một bài diễn văn quyết liệt , Tổng Thống dù đang nghỉ lễ cũng phải chuẩn bị cấp tốc trở về cũng vì bản tin này” Kế đến Kurusu tỏ vẻ lo âu “Dù sao thì cũng phải cẩn trọng hơn trong những bài diễn văn như thế , nó đã đẩy chúng ta vào tình thế vô cùng khó xử …”


  Yamamoto xuống giọng như để Kurusu hiểu và thông cảm với mình “Chúng tôi sẽ cẩn trọng hơn”


  Kurusu tiếp “Chúng tôi ở bên này vẫn cố gắng hết sức mình , nhưng trước những báo cáo dồn dập gửi đến , trong đó có những bản báo cáo đầy tưởng tượng và phóng đại về hành động tiến quân của chúng ta về vùng Nam Á , thật làm cho chúng tôi khó xử hết sức . Nhờ Ngài chuyển lời đến với Thủ Tướng , Ngoại trưởng và các nhân vật khác rằng ở nơi này chúng tôi chỉ trông mong những bản tin khác có lợi cho cuộc thương thuyết mà thôi . Nhưng ngược lại , vừa rồi lại nhận được một bài diễn văn vô cùng bất lợi của Thủ Tướng” Kurusu lại xuống giọng hỏi nhỏ “Vậy thì cuộc thương thuyết Nhật-Mỹ còn tiếp tục nữa hay không ?”


  Yamamoto nói “Vẫn tiếp tục !”


  Kurusu phát cáu nói lớn như quát “Lúc trước Ngài rất nóng lòng cho việc thương thuyết này lắm phải không ? Sao bây giờ Ngài lại có ý muốn kéo dài thời gian ra như thế ?” Thật thì Kurusu không tài nào biết được mục đích của cuộc thương thuyết mà hắn đang đeo đuổi và cố gắng chỉ là một tấm bình phong che đậy cho âm mưu tấn công Trân Châu Cảng . Giọng của Kurusu trở nên gắt gỏng , hắn bảo “Cả hai , Thủ Tướng và Ngoại Trưởng cần phải cẩn trọng hơn trong lời ăn tiếng nói , nhất là trong những bài diễn văn trước công chúng và báo chí ! Tôi chỉ nói thế mong Ngài hiểu cho” (Cuộc điện đàm 8 phút  này đã bị cơ quan tình báo Hoa Kỳ thu được và dịch lại)


  Để hợp thức hóa , kế hoạch tấn công cần phải có sự phê chuẩn của Thiên Hoàng , đó là bước thủ tục cuối cùng trước khi đi vào hành động . Lúc 2 giờ 5 phút chiều ngày thứ Hai , ngày 01 tháng 12 , một cuộc hội nghị được triệu tập ngay tại phòng số 1 trong nội điện . Với vẻ mặt nghiêm trọng và giọng nói nhanh nhưng rõ ràng của Thủ Tướng Tojo , ông công bố rằng Nhật Bản không thể tuân phục lời yêu cầu của Hoa Kỳ là rút quân ra khỏi Trung Hoa và hủy bỏ Hiệp Ước Liên Minh với Đức , Ý . Quốc gia hiện tại đang bấp bênh như ngọn đèn dầu trước gió . Tình cảnh đã bắt buộc nên chúng ta phải chiến đấu . Vì sự tồn vong của một đế chế , vì vẹn toàn lãnh thổ Đại Nhật Bản , chúng ta phải quyết tâm đánh bại ba kẻ thù lớn đến từ phương Tây là Anh , Mỹ và Hòa Lan .


  Sau phần trình bày tỉ mỉ dài dòng về lịch sử quan hệ nhạt nhẽo giữa Nhật và Mỹ của Tojo , Đô Đốc Nagano đứng lên hùng hồn tuyên bố rằng mơ ước của Hải Lục quân Nhật là muốn “mang sức trai hùng ra tận trung báo quốc và phụng sự Thiên Hoàng dầu có xả thân nơi chiến địa cũng chẳng từ nan”


  Thiên Hoàng Hirohito vẫn ngồi im trên Ngai , thỉnh thoảng lại gật đầu tỏ vẻ hoan hỉ . Chủ Tịch Hội Đồng Cơ Mật Hara bắt đầu vặn hỏi những câu hỏi có liên quan đến chiến tranh , và câu cuối cùng ông đưa ra làm cho mọi người bối rối không ít “Trong tình trạng Đông Kinh bị không quân đột kích bất ngờ thì phải làm sao ? Chúng tôi phải làm gì khi Đông Kinh bị tràn ngập ? Các ông đã có kế hoạch nào để giải quyết những tình huống xấu nhất như thế chưa ?”


  Tướng Teiichi Suzuki cho biết cũng có nhiều hầm trú ẩn đơn sơ dành sẳn cho những người muốn bám lấy thành phố . Hara cảm thấy bất nhẫn trong lòng trước sự phòng bị quá sơ sài gần như là con số không  , ông suy nghĩ mãi nhưng vẫn không tìm ra được một lợi điểm nào để chống lại chiến tranh . Cuối cùng ông thở dài và giọng trở nên nghèn nghẹn , ông nói “Người Hoa Kỳ vốn tính tự cao tự đại , cứng cổ cứng đầu và cách xử sự thiếu tôn kính người khác . Nếu chúng ta chiến thắng thì ắt chẳng phải bàn , bằng ngược lại thì hậu quả của nó thật khó mà lường được . Mong quí Ngài hãy suy nghĩ cho thật thấu đáo trước khi quyết định một việc hết sức quan trọng này”


  Tojo tỏ ra cảm thông , ông im lặng suy nghĩ . Đế chế Nhật Bản đang đứng bên ngưỡng cửa vinh quang hoặc xụp đổ . “Chúng ta đang mang cùng một nỗi lo của Thiên Hoàng . Nếu Ngài quyết định đi đến chiến tranh , chúng ta phải cố gắng hết sức mình để đáp đền ơn mưa móc . Chính phủ và quân đội phải đoàn kết thành một khối , đặt quyền lợi quốc gia lên hàng đầu và nỗ lực quyết tâm giành lấy chiến thắng” .


  Sau một hồi lâu bàn bạc , phiên họp đi đến chấm dứt trong im lặng , không bàn cãi không một ý kiến cụ thể nào được mang ra thảo luận . Mọi người lần lượt cúi đầu hành lễ với Nhật Hoàng rồi lặng lẻ ra về . Trong phòng chỉ còn lại những người có nhiệm vụ ký tên vào bản chiến nghị để dâng lên Thiên Hoàng . Ngồi trầm tư suy nghĩ , Thiên Hoàng Hirohito đắn đo cân nhắc sự việc , ông cảm thấy mình đã chắc chắn chọn lựa con đường chiến tranh không phải vì sự thôi thúc của một vài phần tử hiếu chiến trong phe quân đội . Ông mới tâm sự với Kido rằng sự đề xuất của Ngoại Trưởng Hull quả là thái quá , nó là một sự sĩ nhục không thể chấp nhận được . Chính ông , một vị Thiên Hoàng khả kính của thần dân trăm họ mà phải bất chấp truyền thống quốc gia dân tộc, hủy bỏ những điều tạm ước với Hoa Kỳ từ trước để bắt đầu lại bằng “trang giấy trắng” khi quyết định Tojo lên thay thế chức vụ Thủ Tướng . Và thậm chí ngay cả thay đổi này kết quả cũng chẳng đi đến đâu .


  Thiên Hoàng đờ đẫn như người xuất hồn khi cầm trên tay bản chiến nghị . Một tập giấy mỏng mang tính cách lịch sử này đang chờ ông đóng dấu ấn vào là quyết định chiến tranh đã được hợp thức hóa . Lịch sử nước Phù Tang rồi đây sẽ sang một trang khác , Đế Chế Đại Nhật sẽ bước sang một khúc quanh mới , vươn lên tột đỉnh vinh quang hay bị vùi sâu dưới nấm mồ nhục nhã !


  Thế là quyết định đi đến chiến tranh đã được phê chuẩn .


   Chỉ còn một tuần nữa là những cuộc tấn công sẽ bắt đầu nổ ra đồng loạt , và cơ hội thành công của họ còn tùy thuộc vào yếu tố bất ngờ . Nhưng tối hôm ấy , 01 tháng 12 , một bức điện tín gửi về Đông Kinh từ Trung Hoa báo cáo rằng mọi bí mật quân sự có cơ bại lộ . Tin này do Tướng Tsutomu Sakai , tư lệnh lộ quân 23 Lục quân đang trấn đóng tại Quảng Châu chờ tiến chiếm Hương Cảng . Một phi cơ vận tải trên đường tới Quảng Châu chẳng may bị rơi xuống khu vực do Trung Hoa Quốc Dân Đảng làm chủ . Một hành khách có mặt trên chuyến bay kém may mắn này là Thiếu Tá Tomozuki Sugisaka , trong tay ông đang nắm giữ toàn bộ tập hồ sơ mật bao gồm những mật lệnh cho chiến dịch .


  Tổng Tham Mưu Quân Đội được lệnh báo động đặc biệt . Hải quân cũng triệu tập ngay một phiên họp khẩn cấp . Hàng chục câu hỏi được đặt ra để bàn bạc : liệu Thiếu Tá Sugisaka có đủ thời giờ để hủy tất cả hồ sơ mật ấy không ? Những mảnh giấy ấy tự nó có bốc cháy khi phi cơ lâm nạn phát hỏa ? Hoặc giả nó đang trên đường chuyển đến tay Tưởng Giới Thạch hay Roosevelt ? Chúng ta nên tiến hành Chiến dịch Z hay hủy bỏ nó ? Họ tự đặt ra câu hỏi rồi bàn tán cãi vả cho đến khuya nhưng tựu trung vẫn chưa có được một quyết định khả dĩ nào đáp ứng lại tình thế rối beng ấy .


  Sáng hôm sau họ nhận được một nguồn tin chính xác gửi về từ một chuyến bay thám thính : xác chiếc phi cơ lâm nạn hiện nằm tại vị trí cách thành phố Quảng Châu 50 dặm hướng Tây Bắc , đúng vào điểm đóng quân của phe Quốc Dân Đảng . Theo lời tường thuật của viên phi công thám thính thì chiếc phi cơ ấy bị lính của Tưởng bao vây chung quanh đông như kiến .


  Vẫn trong tình trạng hồi hộp , nhưng Nagano và Sugiyama phải lái xe đến Hoàng Cung để vào yết kiến Thiên Hoàng để được ông thông báo chính thức ngày giờ đích xác của cuộc tấn công . Tại đây họ mới biết được đó chính là ngày 08 tháng 12 – 1941 tức là ngày 07 tháng 12 – 1941 tại Hạ Uy Di , đúng vào ngày mà tất cả hạm đội Hoa Kỳ đều tựu về Trân Châu Cảng để nghỉ ngơi . Và cũng đúng ngay thời điểm trăng trung tuần vằng vặc rất tiện lợi cho việc tiến công .


  Trở lại văn phòng làm việc , Sugiyama gửi ngay cho Tướng Terauchi , chỉ huy trưởng lực lượng Nam Á châu một bức điện tín ngắn gọn vỏn vẹn có hai chữ “HINOE YAMAGATA” . Bức điện được giải mã như sau : “Chiến dịch được quyết định (HINOE) sẽ là ngày 08 tháng 12 (YAMAGATA)” .


  Ba tiếng đồng hồ sau , Tư lệnh Hạm đội liên hợp Yamamoto đánh một bức điện tín bằng tín hiệu gửi thẳng đến bộ chỉ huy đội xung kích Trân Châu Cảng . Bức điện văn như sau “Trèo núi Nikata 1208 bộ” có nghĩa là “kế hoạch tấn công sẽ là ngày 08 tháng 12” .


  Kido Butai , hạm đội xung kích Trân Châu Cảng đang âm thầm tiến theo thủy lộ về hướng đông với vận tốc 14 hải lý một giờ . Ở khoảng cách không xa phía trước là 3 chiếc tiềm thủy đỉnh cũng lặng lẻ di chuyển theo hình đội hình vòng cung , nhiệm vụ của những tiềm thủy đỉnh này là thám sát , nếu phát giác ra bất cứ thương thuyền nào lọt vào vùng di chuyển của đội hạm xung kích thì nó sẽ khai hỏa tiêu diệt ngay . Ngay trong vùng biển này cũng có thể chạm trán với Hải đội tuần dương của hạm đội Thái Bình Dương Hoa Kỳ nên họ phải cảnh giác cao độ hầu kịp thời đối phó với mọi biến cố bất ngờ .


  Gió lặng biển êm , sự di chuyển dễ dàng và càng thuận lợi cho việc tiếp tế nhiên liệu . Nagumo lệnh cho tất cả thuyền trưởng trên các chiến hạm tham chiến tắt hết đèn đuốc , đồng thời thông báo cho tất cả thủy thủ đoàn biết rõ về kế hoạch Trân Châu Cảng . Đêm ấy sóng lặng gió êm , khí lạnh căm căm của đại dương nhưng không làm nguội đi bầu nhiệt huyết của những chàng trai Phù Tang đang hừng hực cháy sôi trong huyết quản , họ tự hào đã có mặt trong đoàn quân xung kích , đoàn quân đi làm lịch sử .


  Ngay đêm ấy tại Đông Kinh , trang đầu của Nhật Báo Janpan Times & Advertiser có chạy một tít lớn “Nhật Bản sẽ cố gắng nhiều hơn nữa để lập lại mối bang giao với Hoa Kỳ”

  

  

  Phần thứ 3


      Một giờ sau khi hạm đội Kido Butai ra khỏi vùng băng giá của vịnh Hitokappu , Thiếu tá Hải quân Wilfred J.Homes , người phụ trách công tác theo dõi mọi di chuyển của chiến hạm Nhật Bản , báo cáo lên thượng cấp , tổng hành dinh ở Trân Châu Cảng rằng 6 hàng không mẫu hạm của địch vẫn còn quanh quẩn “trong vùng biển của họ”. Nhưng sau đó , một báo cáo khác , Homes lại thú nhận rằng họ đã mất dấu của những mẫu hạm này . Và sau đó , ngày lại ngày qua họ chẳng còn dò tìm được tung tích của những mẫu hạm ấy nữa .


  Thiếu Tá Edward T.Layton lập tức chuyển tin này lên Đô Đốc Kimmel . Đô Đốc hỏi như nửa đùa nửa thật “Thiếu Tá cho rằng họ đang bao vây Diamond Head và Thiếu Tá cũng chẳng biết được nữa ư ?”


  Vài dặm cách đấy , tại Honolulu , Tổng lãnh sự Kita vừa nhận được một điện văn gửi đến từ Đông Kinh . Bức điện văn như sau :


  “Lưu tâm đến những vấn đề sau : hiện trong cảng đang có những hàng không mẫu hạm nào và bao nhiêu chiến hạm bỏ neo ? Việc này rất hệ trọng . Quan sát trên không phận Trân Châu Cảng nếu có thả hàng rào bong bóng phòng không đồng thời dò xét những chiến hạm đang thả neo xem có phòng bị lưới chống thủy lôi . Cố gắng gửi báo cáo về từng ngày …”


  Bức điện văn này lời lẽ quá lộ liễu không khác nào một lời cảnh báo tấn công Trân Châu Cảng , nếu ai vô tình đọc được nó dù là một thường dân cũng có thể hiểu ngay được . Nó bị phát giác ở Hạ Uy Di và gửi thẳng về Hoa Thịnh Đốn để giải mã , nhưng từ khi Hạ Uy Di được xem không có dính dáng gì đến việc thương thuyết giữa Nhật và Hoa Kỳ thì những bức điện tín loại này không được liệt vào hàng tối quan trọng nên bị người ta quên lững nó đi . Chẳng riêng gì một bức điện bị bỏ quên , sở tình báo còn chận bắt được một bản đồ Trân Châu cảng và đầy đủ chi tiết dẫn giải . Thiếu Tướng Sherman Miles , chỉ huy trưởng tình báo quân đội lại hiểu lầm nên cho rằng Hải quân đã dặn dò bảo phe lục quân không cần thiết phải quan tâm đến , vì kèm theo bản báo cáo ấy , ông trưởng phòng tình báo Hải quân là Thiếu Tá Kramer chỉ đánh dấu “một hoa thị” để nói lên sự “quan tâm” thay vì “hai hoa thị” ám chỉ cho “tối khẩn” . Về phần Kramer thì ông chỉ coi đó đơn thuần là “một âm mưu đen tối nào đó trong lĩnh vực công tác ngoại giao của Nhật Bản được đơn giản hóa trong việc thông tin với nhau”


  Bernard Baruch , một viên cố vấn không chính thức của Roosevelt và cũng là một người bạn chí thân của Churchill , ông đang ở trong căn phòng của một khách sạn sang trọng tại Hoa Thịnh Đốn bàn chuyện với Raoul Desvernine , luật sự đại diện cho nghiệp đoàn Mitsui . Vị luật sư này bảo rằng viên công sứ đặc biệt Saburo Kurusu rất muốn được thỉnh thị ý kiển trực tiếp từ Tổng Thống Roosevelt thay vì phải qua trung gian của Ngoại Trưởng Hull , và nhờ Baruch giúp đở nếu có thể . Baruch liền chuyển lời đến Trung Tướng Adwin Watson , một trong những vị thư ký riêng của Roosevelt . Không bao lâu sau đó , Watson điện thoại đến Baruch và báo rằng Tổng Thống từ chối không muốn gặp Kurusu trừ phi có sự hiện diện của Ngoại Trưởng Hull bên cạnh .


  Hôm sau , 03 tháng 12 , Baruch đến gặp luật sư Desvernine và Kurusu tại khách sạn Mayflower . Kurusu long trọng tuyên bố rằng chính ông và toàn thể nhân dân Nhật Bản cùng Thiên Hoàng kính yêu của họ , tất cả đều khao khát có được một cuộc sống hạnh phúc hòa bình , nhưng khổ một nỗi những vị chỉ huy quân sự lại “cầm sẳn hai tay hai cây súng , đạn đã lên nòng … và nhất định bóp cò cho bằng được” . Chiến tranh có thể ngăn chận lại được nếu Tổng Thống cho phép chúng tôi được tương kiến , nhưng chỉ tương kiến với Ngài thôi chứ không có sự hiện diện của “một con người không thân thiện và bất tín nhiệm” như Ngoại Trưởng Hull . Kurusu còn cho biết ông ta có thể dùng ba tấc lưỡi để thuyết phục phe quân đội hiếu chiến và tự mình cầu khẩn Thiên Hoàng , để xin ông mời Roosevelt làm trung gian giải quyết mọi rắc rối giữa Nhật Bản và Trung Hoa . Kurusu còn nhấn mạnh thêm , việc quan trọng là cuộc đàm phán vẫn tiến hành và cách tốt nhất để đạt hiệu quả là nếu Roosevelt gửi ngay một vị đại diện như Harry Hopkins đến Nhật Bản .


  Baruch hứa rằng sẽ chuyển tất cả những gì Kurusu đã bàn đến tòa Bạch Ốc .


  Một phái viên hòa bình khác , E.Stanley Jones , một nhà truyền giáo lỗi lạc thuộc Hội Giám Lý (một giáo phái xuất phát ở Anh Quốc) cũng đang cố gắng diện kiến Roosevelt để trình lên một đề nghị hòa bình tương tự . Ông điện thoại đến Tòa Bạch Ốc và khẩn cầu xin được lấy hẹn đến gặp Tổng Thống . Và ông được Roosevelt gọi vào tức thì .


  Ở đây Tổng Thống cho Jones biết là chính ông đã từng cân nhắc rất thận trọng khi muốn viết một lá thư riêng cho Nhật Hoàng Hirohito nhưng cho đến bây giờ ông vẫn còn lưỡng lự chưa quyết định , bởi lẽ ông không muốn mất lòng những vị đại diện ngoại giao Nhật đang có mặt tại Hoa Thịnh Đốn . “Làm như thế như thể mình coi họ không ra gì cả , vì thế tôi vẫn suy nghĩ mãi không biết nên hay không”


  Jones nói “Cũng vì lẽ đó mà tôi phải đích thân đến gặp Tổng Thống đây” . Rồi căn cứ theo một ý kiến bắt nguồn từ Kurusu và Nomura mà họ đã bàn bạc từ trước , Jones tiếp “Họ đã nhờ tôi đến để yêu cầu Tổng Thống gửi một bức điện tín cho Hirohito . Họ đã bảo đảm sẽ không có ai phát giác ra được để bảo rằng Tổng Thống và Hirohito “bước qua đầu của chính phủ họ mà đi” . Họ còn bảo đầu của họ dầu sao cũng chẳng “đáng giá gì cho lắm” .


  Roosevelt cũng cười tươi nói “Thế thì tốt . Tôi có thể làm việc này”


  Jones còn cẩn thận nhắc nhở Roosevelt chớ nên gửi theo đường ngoại giao mà hãy gửi thẳng đến dinh Nhật Hoàng , chỉ có cách đó nếu không bức điện ấy sẽ chẳng bao giờ đến tay ông ta được . Jones ghé tai Tổng Thống nói “Tôi vốn chẳng biết tí ti gì về nội tình của quốc gia họ nhưng nghe họ dặn như thế thì tôi cho Tổng Thống biết thế mà thôi”


  Tổng Thống suy nghĩ một chốc rồi nói “Tôi đã nghĩ ra rồi . Bây giờ tôi đi ngay xuống phòng điện tín và bảo : Tôi , Tổng Thống Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ muốn đánh một bức điện tín đến Thiên Hoàng của Nhật Bản . Tôi sẽ gửi đến cho Đại Sứ Grew và ông ta sẽ đích thân trao lại cho Hirohito . Và đợi 24 tiếng đồng hồ sau nếu không nghe hồi âm đến từ Đông Kinh tôi sẽ có hành động bắt buộc họ phải trả lời cho bằng được”


  Bức điện tín theo lẽ sẽ gửi trong nội nhật hôm ấy nếu nó không phải chờ đợi Hull ghé mắt trông vào . Vẫn một thái độ mập mờ khó hiểu , Hull cãi lý rằng điều đình thẳng với Hirohito chỉ là một phương sách cuối cùng vì người ngự chiếc Ngai vàng ấy chỉ là một con bù nhìn trước sự khống chế của Nội các Tojo . Hơn nữa , một khi bức điện này được công bố ra thì chỉ làm cho chính phủ họ thêm phẫn nộ vì bị người ta “bước qua đầu mà đi” và một điều sĩ nhục hơn nữa là Hoa Kỳ đã tỏ ra yếu kém trước một tiểu quốc da vàng .


   Bên kia nửa vòng trái đất , Tướng Tomoyuki Yamashita đang ngồi đọc những mật lệnh tấn công cho những sĩ quan tư lệnh sư đoàn và các vị chỉ huy những chi đội biệt lập . Họ ngồi chăm chú lắng nghe , khi đuợc nhận thức rõ vận mệnh của Nhật Bản đang bị đe dọa trầm trọng , nước mắt họ pha đầy trên mỗi khuôn mặt sạm đen vì sương gió sa trường .


  Ba cuộc đổ bộ được lên kế hoạch vào lúc rạng đông ngày 08 tháng 12  tại bờ biển phía đông bán đảo Mã Lai . Hai toán trên đất Thái : Pattani và Singora , một toán khác trên lãnh thổ Mã Lai : Kota Bharu . Như một giấc mơ đầy cảm hứng , Đại Tá Tsuji có ý định sử dụng lãnh thổ trung lập Thái Lan làm bàn đạp để tấn công Mã Lai . Ông vẽ một chiến thuật táo bạo mô phỏng theo “chiến thuật con ngựa thành Troa” . Một nghìn binh sĩ Nhật ngụy trang theo quân phục Thái sẽ đột nhập chung quanh khu vực Singora và la cà trong các quán cà phê hoặc quán bar . Sau đó họ lại khéo léo cho tập trung từ 2 đến 30 chiếc xe buýt trưng dụng cho quân đội , kéo nhau lên xe và không quên mang thêm mấy ả má phấn môi hồng rồi trực chỉ biên giới Mã Lai . Cứ tay vẫy quốc kỳ Thái Lan và Anh quốc và miệng không ngừng chữi rủa lính Nhật tàn bạo dã man lại hoan hô lính Anh không dứt . Có như thế mới có thể qua mặt được bọn an ninh nơi biên giới , và tất nhiên họ sẽ mở cửa biên giới cho đoàn xe buýt với nghìn lính Nhật lọt vào đất Mã Lai một cách êm thắm đàng hoàng .


  Bình minh hôm sau , 04 tháng 12 , một đoàn tàu 26 chiếc rời đảo Hải Nam di chuyển về hướng Nam đến bán đảo Mã Lai . Biển yên gió lặng , Đại Tá Tsuji ra đứng trên mũi thuyền chỉ huy đưa mắt nhìn xa xa về cuối trời , nơi ấy vầng dương mới vừa ló dạng . Một màu đỏ thẫm e ấp thẹn thùa sau lớp mây mỏng giăng giăng . Tsuji nhìn khối đỏ tận chân mây ấy mà hình dung ra nét mặt hiền hòa của bà mẹ kính yêu , người vợ trẻ ngày mong đêm nhớ và đàn con thơ dại đang dõi mắt chờ cha nơi quê nhà xa diệu vợi . Trời sáng tỏ dần , cảnh vật quang đãng , chung quanh Tsuji chẳng có gì ngoài trời và nước mênh mông một màu . Nếu không có tiếng của động cơ rì rầm bên tai , không có những bộ quân phục màu ô liu và những ụ súng nằm bất động lạnh lùng kia thì sự im ắng của đại dương trong buổi sớm tinh mơ phẳng lặng , những chiến binh trên đường xông trận này có thể quên đi nhiệm vụ trong một khoảnh khắc nào đó để liên tưởng rằng mình đang sống trong một thế giới yên tĩnh thanh bình .


  Cũng một buổi chiều cùng ngày , chính phủ Đông Kinh cho triệu tập một phiên họp đặc biệt , cùng quyết định ngày giờ gửi tối hậu thư cho Ngoại Trưởng Hull . Phó Đô Đốc Seiichi Ito thì đồng ý ở thời điểm 12 giờ 30 chiều ngày 07 tháng 12 , giờ Hoa Thịnh Đốn . Riêng Thủ Tướng Tojo và Ngoại Trưởng Togo thì nghĩ rằng nên chuyển giao tối hậu thư trước khi tấn công . Trao đổi một lúc , họ đồng ý với Phó Đô Đốc Ito , tức là 12 giờ 30 chiều ngày 07 tháng 12 .


  Theo ý kiến của Togo thì nó không hẳn là một tối hậu thư , chỉ đơn thuần một lá thư thông báo việc thương thuyết đã kết thúc ; bản dự kiến do chính ông soạn thảo đã mang lại niềm đắng cay chung cho dân tộc và càng có lý do chính đáng để phẫn nộ sau khi nhận được thư trả lời dứt khoát của Ngoại Trưởng Hull , nhưng Nhật Bản đã cố gắng im lặng để xoa dịu nỗi bất bình “Một mặt khác , chính phủ Hoa Kỳ vốn cứng ngắt luôn bám lấy cái thuyết cỗ hủ là bất chấp thực tế , không bao giờ chịu nhường một bước trong cái nguyên tắc thiếu thực tế của họ . Cũng vì một nguyên nhân không đáng này đã gây chậm trễ cho việc đàm phán” . Và kết thúc bằng cách Nhật Bản rất lấy làm tiếc nuối khi bắt buộc phải lên tiếng “Bởi quan điểm của Hoa Kỳ nên tất cả phải chấm dứt , không thể nào đạt được một thỏa hiệp chung nếu cứ tiếp tục thương thuyết” . 


  Có một vài người vẫn mang hy vọng là vẫn còn có cơ hội thương thuyết , nhưng đa số thì cho là tất cả đã quá trễ . Thời gian không còn cho phép lo việc đàm phán nữa , bây giờ đến lúc chuẩn bị tuyên chiến là vừa .


  Để đề phòng không bị địch phát giác , mọi mật mã liên lạc của Hải quân Nhật đã được thay đổi toàn bộ . Cho đến bây giờ cơ quan tình báo Hải quân Hoa Kỳ không thể nào do tìm ra tung tích của 6 chiếc mẫu hạm Nhật được , và quan trọng hơn phải cần thêm một thời gian dài nữa mới có thể đọc và giải được những mật mã mới thay đổi của họ . Bây giờ thì đoàn xung kích Kido Butai đã tiến xa hơn một phần ba đoạn đường , họ không để lại phía sau một dấu vết gì chứng tỏ có một hạm đội vừa đi qua . Rác rưởi và đồ phế thải thì được gói lại để vào một nơi , thùng dầu không thì chất thành đống trên sàn tàu . Đến giữa trưa hôm ấy thì đội xung kích gặp nhau trên giao điểm đã hẹn để được tiếp tế thêm nhiên liệu , dầu cặn để tiếp tục . Xong , đoàn tiếp tế quay về còn đội xung kích bắt đầu nhắm hướng Hạ Uy Di tấn phát . Họ thay đổi tốc độ , thay vì 9 hải lý một giờ thì cho tiến nhanh thêm ở vận tốc 12 hải lý .


  Chiều hôm ấy , một báo động đầu tiên đến với họ . Một bức điện tín với loại mật mã mới được gửi đi từ Yamamoto . Bức điện tín báo động đã chận bắt được một tín hiệu liên lạc có thể phát xuất từ tiềm thủy đỉnh của địch ở quanh quẩn trong vùng biển của đội hạm xung kích đi đến . Kurasa lấy làm lạ vì chính ông và các hạm trưởng trong đội xung kích chẳng ai phát giác bất cứ một sóng tín hiệu lạ nào cho là đáng nghi cả . Tuy nhiên , với một báo động không chắc chắn ấy thì dễ gì làm họ nao núng , họ cho đội xung kích di chuyển theo hướng đông nam với một vận tốc nhất định là 12 hải lý một giờ bất chấp sướng mù dày đặc . Phía dưới tầng hầm , những phi công chờ giờ xuất phát còn đang bận bịu , kẻ thì lo tranh nhau sơn vẽ những hình thù dữ tợn trên thân phi cơ , người thì lấy sổ tay viết nhật ký , viết thư v.v . Đời mây gió vẫy vùng bỗng chốc phải bó gối ngồi chờ , thời gian này đối với họ quả thật là nhàm chán vô cùng . Tuy nhiên mỗi ngày họ phải dành ra vài tiếng để thu mình ngồi vào phòng lái chiếc phi cơ của mình để ôn lại những thao tác khi lâm trận . Chuyên viên thả bom thì chăm chú ôn luyện tầm nhìn và mục tiêu trên bản đồ . Khác với những người lính xạ thủ , ngày ngày họ lên boong tàu tập bắn , tấm bia lay động là những cánh diều thả lên trong những lúc trời quang mây tạnh .


  Hôm sau , 05 tháng 12 , Phó Đô Đốc Ito ghé qua văn phòng của Togo ở Bộ Ngoại giao và cho biết nên trao tối hậu thư cho Ngoại trưởng Hull lúc 1 giờ chiều giờ Hoa Thịnh Đốn , thay vì 12:30 như cuộc họp đã ấn định . Togo thắc mắc lý do tại sao lại trễ thêm 30 phút nữa thì Ito chỉ trả lời vì ông đã tính nhầm thời gian (sự khác biệt theo múi giờ) . Togo lại hỏi từ lúc đưa ra tối hậu thư đến lúc tấn công khoảng thời gian được bao lâu , Ito từ chối trả lời với lý do “bí mật quân sự” , tuy nhiên ông cũng cho Ngoại trưởng biết “Ngoại trưởng chớ lo , chúng ta dù sao cũng là những người biết chuyện phải quấy mà . Họ (chỉ Hoa Kỳ) sẽ có đủ thì giờ !” Đoạn ông rời khỏi phòng không quên nhắc lại một lần nữa là đừng gửi thư đi quá sớm .

  

  

  Phần thứ 4


    Oahu nằm im lìm dưới trời mưa rả rít , gió biển từng đợt thổi vào , tàu lá dừa ướt sủng nước mưa lao xao uốn mình theo gió . Một chiếc máy bay nhỏ loại du lịch bay lượn hai vòng Oahu rồi từ từ hạ cánh xuống một phi trường dân sự gần đó . Yoshikawa thong thả bước ra khỏi phi cơ và đón taxi đến nhà hàng Shunchoro , nơi do một người Nhật vốn đồng hương với Yoshikawa làm chủ . Lợi thế của nhà hàng này là có thể nhìn bao quát toàn cảnh của quân cảng . Đây là chuyến “tham quan” cuối cùng ở Trân Châu Cảng để sau khi trở về đúc kết bản báo cáo gửi về Đông Kinh . Lúc ban sáng , Yoshikawa nhận được một điện tín khẩn từ tổng bộ , yêu cầu hắn phải gửi ngay một bản báo cáo đích xác con số hạm đội Hoa Kỳ hiện đang có mặt tại quân cảng cho nên hắn mới thuê một máy bay du lịch , vờ như bay quanh đảo nhưng tình thật chỉ chú ý đến Trân Châu Cảng .


  Đến chiều Yoshikawa đã hoàn tất bản báo cáo về Đông Kinh . Bức điện văn báo cáo của Yoshikawa như sau :


  “…Hạm đội Thái Bình Dương của Mỹ hiện có mặt tại quân cảng chiều ngày 05 tháng 12 gồm có : 8 thiết giáp hạm, 2 tuần dương hạm nặng, 6 tuần dương hạm nhẹ, 29 khu trục hạm, 5 tiềm thủy đỉnh, 1 thuyền máy, 8 khu trục giải mìn, 1 tàu thả mìn, 4 khu trục hạm vớt mìn, 6 tàu vớt mìn và 24 tàu đủ loại khác”.


  Bức điện tín này bị nhóm tình báo Hải quân chận bắt được nhưng khi chuyển về cơ quan trung ương để giải mã thì may mắn cho Yamamoto thay , một lần nữa nó được xếp vào hạng “thứ yếu” nên cho vào ngăn tủ !


                                       ………………………………….


  Một tờ báo có tầm vóc tại thủ đô Đông Kinh thời bấy giờ là Asahi Shimbun , là một tờ báo nổi tiếng bài ngoại và ủng hộ triệt để phe quân phiệt . Vẫn với một luận điệu đã phá và cáo buộc sự gia tăng chiến tranh của người phương Tây , hôm 06 tháng 12 , một bản tin thời sự nóng bỏng được in đậm nét ở ngay trang đầu :


  “Mọi nỗ lực đàm phán đều vô ích vì mục đích của Hoa Kỳ là không muốn thỏa hiệp với Nhật Bản”


  “Giới lãnh đạo Hoa Kỳ dù muốn sớm giải quyết những mâu thuẫn với Nhật Bản nhưng cái nhìn độc đoán cố hửu của họ vẫn không bao giờ thay đổi…..”


  “Đời sống của nhân dân Nhật Bản đang bị dao động bởi những tin đồn : Bốn cường quốc đang ráo riết chuẩn bị hành động quân sự đe dọa lại mục đích yêu chuộng hòa bình của họ”


  Những sự kiện gần đây đã cho Otto Tolischus , một đặc phái viên tuần báo NewYork Times hiện đang công tác tại Đông Kinh cảm thấy có một cái gì đó bất ổn trong chính trường và xã hội Nhật . Ông viết gửi ngay về tòa soạn ở NewYork Times một bài tường thuật tại chỗ , tóm tắt những gì mắt thấy tai nghe như sau :


  “…Hầu hết những người dân Nhật đều phủ nhận không tin tưởng vào tin đồn 4 cường quốc chuẩn bị mang quân chinh phạt quốc gia của họ …


  … Nhưng những gì họ được tận mắt chứng kiến xung quanh họ lại quá mâu thuẫn với cái hy vọng hòa bình mà họ hằng ôm ấp . Họ phải lắng nghe những bài diễn văn báo động đến từ chính phủ , rằng Nhật Bản sẽ phải đối diện một cuộc khủng hoảng trầm trọng chưa từng có trong 2.600 năm lịch sử . Họ phải tham dự những buổi mít-tin tập thể để nghe chửi rủa lăng mạ kẻ thù và tìm đọc những lời kêu gọi nhân dân ủng hộ một cuộc chiến đúng đắn được đăng trên các mặt nhật báo . Trước mắt họ , hầm trú ẩn và bể chứa nước được xây dựng khắp nơi trong thành phố . Trong túi họ , tiền bạc càng lúc càng vơi dần vì thuế khóa gia tăng , vật giá leo thang nhưng việc làm thì hiếm hoi khó kiếm . Họ đoán biết chiến tranh đã tiến đến sát một bên cuộc sống thầm lặng của họ rồi . Quả thật , chiến tranh đã xảy ra ở tận bên kia thềm lục địa , mà chỉ với một khoảnh thời gian không lâu nó đã vươn ra xa xôi đến tận vùng đảo quốc Phù Tang , xứ của cháu con Thái Dương Thần Nữ .


  Người Nhật vốn không thích chiến tranh nhưng họ không thể chịu nhục để từ bỏ một cơ đồ mà họ đã tốn biết bao xương máu để dành được từ bao thế hệ . Họ được chính phủ của họ giải thích đây là một cuộc chiến để bảo vệ , để giử gìn nòi giống . Một trăm triệu con dân Nhật Bản với một dãy đảo cô đơn nhỏ hẹp , ít tài nguyên nhưng giàu lòng ái quốc , họ sẽ đoàn kết lại thành một khối để chống lại mưu đồ khai hóa của kẻ ngoại bang da trắng …


  Nếu cho rằng người Nhật là những kẻ ươn hèn thích cầu an đến đổi người ta đánh tới cửa nhà nước non tan tác rồi mới miễng cưởng chống lại là hoàn toàn sai . Hoặc cho rằng tiềm năng chiến tranh của họ rất yếu hay chỉ có giới hạn nào đó thì cũng thật là một sự đánh giá quá nông cạn . Người Nhật vốn là một dân tộc có tinh thần bảo thủ và ý chí quật cường . Tình yêu nước và lòng trung thành tuyệt đối với Thiên Hoàng của họ đã trở thành một truyền thống bất di bất dịch từ nghìn năm nay . Họ không cần biết những người léo lái quốc gia của họ đúng hay sai , nhưng Thiên Hoàng và đất nước của họ lâm nguy thì bổn phận của họ phải tự đoàn kết lại với nhau , trước để bảo vệ quê hương giống nòi và sau là được chết vinh quang mà đền ơn vua , nợ nước ….”


                               ………………………………………….


  Trở lại Manila Phi Luật Tân , Đô Đốc Thomas Hart , chỉ huy trưởng hạm đội vùng biển châu Á tiên đoán chiến tranh có thể bùng nổ bất cứ lúc nào . Với một hạm đội quá khiêm nhường : một tuần dương hạm hạng nặng , một tuần dương hạm nhẹ , 13 khu trục hạm thời đệ nhất thế chiến và 29 tiềm thủy đỉnh , Hart đã chuẩn bị sẳn sàng nhập cuộc nếu chiến tranh xảy ra . Đạn dược phòng bị đã tích trử đầy đủ và thủy lôi cũng lắp sẳn đầu đạn chờ đợi .


  Tuy nhiên sự suy đoán của Đô Đốc Hart cũng không gây xôn xao trong nội bộ bằng bản báo cáo của cơ quan an ninh ,  trong ba đêm liền đêm nào họ cũng phát giác có sự xuất hiện của chiếc phi cơ lạ bay quanh trên vòm trời ClarkField , một căn cứ không quân chính của Hoa Kỳ ở Phi Luật Tân . Dù tướng tá bàn bạc tìm cách đối phó nhưng Tướng MacArthur lại khuyên là không nên có hành động . Chiều hôm ấy , 06 tháng 12 , ông cùng Hart họp bàn với một tân khách đến từ Tân Gia Ba là Phó Đô Đốc Sir Tom Phillips , chỉ huy trưởng hạm đội Anh ở vùng viễn đông . Họ đang thảo luận về nguồn tin vừa gửi về là đoàn công voa của Nhật tiến qua khỏi vùng Đông Dương và mất dấu trong sương mù dày đặc ở quanh vịnh Xiêm La . Câu hỏi được mang ra thảo luận là Nhật Bản đang mang quân tấn công Mã Lai và Tân Gia Ba hoặc chỉ đơn thuần là chuyển quân đến đất Thái ?


  Arthur lên tiếng trấn an rằng tính đến tháng 04 năm tới thì ông sẽ có trong tay một đội quân tinh nhuệ gồm 200 ngàn quân cùng một phi đoàn hùng hậu : 256 oanh tạc cơ và 195 chiến đấu cơ .


  Hart thành thật hỏi lại “Đó là chuyện trong tương lai , sang năm mới nói . Còn bây giờ , ngay trước mắt sự bố phòng của mình như thế nào xin Trung Tướng cho biết” . Arthur chán nản trả lời hiện thời trong tay ông có sẳn một đơn vị khoảng 130 ngàn , nhưng trong số ấy có gần 100 ngàn được sát nhập từ những sư đoàn tân lập của Phi Luật Tân , trang bị của họ rất thô sơ . Chỉ với vài tháng tập sự qua loa , trận mạc chưa quen , chiến trường cũng không biết nên họ chỉ giỏi có mỗi một việc là dàn chào và … làm cảnh mà thôi ! Về không lực thì còn thãm hại hơn nữa , với 35 pháo đài bay và 107 chiến đấu cơ loại P-40 .


  Sau khi bàn bạc thảo luận xong , Phillips yêu cầu Hart đồng ý tăng viện cho hạm đội của ông thêm 4 chiếc khu trục hạm , với mục đích hiệp sức cùng hai chiếc thiết giáp hạm Prince fo Wales và tuần dương hạm Repulse phong tỏa một vùng biển rộng từ Tân Gia Ba đến biên giới Thái Lan thuộc bờ phía tây bán đảo Mã Lai , nhằm ngăn chận lại mưu đồ tiến quân của Nhật . Hart gật đầu đồng ý , Phillips còn ngồi nán lại bàn bạc thêm một số việc cần bàn rồi mới định quay trở về phòng nghỉ ngơi thì ngay lúc ấy một bức điện khẩn gửi đến cho ông từ Tân Gia Ba , căn cứ không quân ở đó vừa phát giác một hạm đội gồm nhiều chiến hạm của Nhật vừa cặp vào bờ biển Thái Lan .


  Hart vội hỏi Phillips “Phó Đô Đốc định bao giờ bay trở lại Tân Gia Ba ?” Phillips trả lời ngay “Ngày mai” . Hart nói không cần suy nghĩ “Nếu như Ngài muốn trở về ngay lúc chiến tranh mới bắt đầu thì tôi đề nghị là Ngài nên trở về ngay lúc này !”


                           ……………………………………………….


  Cũng cùng một buổi chiều hôm ấy (06-12-1941) chính phủ Đông Kinh đã hoàn tất văn bản thông báo cho dự án ngoại giao cuối cùng để gửi đến Ngoại trưởng Hull . Kameyama , trưởng phòng liên lạc trực thuộc bộ Ngoại giao được lệnh đánh ngay một bản tài liệu hướng dẫn tổng quát sang cho Tòa Đại Sứ Nhật Bản tại Hoa Thịnh Đốn , thời gian nhận phải theo lịch trình sau đây : văn bản hướng dẫn đến tay người nhận khoảng 8 giờ sáng ngày 06 tháng 12 , giờ Hoa Thịnh Đốn . Tiếp theo đó một tiếng đồng hồ là phần chính của văn của văn bản . Tất cả tập văn bản được chia ra làm 14 phần và được đánh bằng Anh ngữ để phòng ngừa nạn phiên dịch cẩu thả . Mười ba phần đầu được đánh gửi đi theo thứ tự trong nội nhật ngày hôm ấy . Và để bảo mật tối đa , phần cuối cùng là phần thứ 14 , một phần quan trọng hơn hết – là một tối hậu thư mà Nhật Bản đã dành sẳn cho Hoa Kỳ vào giờ cuối cùng khi cuộc thương thuyết thất bại . Phần này sẽ không gửi đi cho đến 4 hoặc 5 giờ sáng ngày 07 tháng 12 năm 1941 .


  Mọi thông tin liên lạc bằng điện tín giữa Đông Kinh và Hoa Thịnh Đốn vào thời điểm này thì rất dễ dàng nhanh chóng, thường thì gửi và nhận không mất hơn 1 tiếng đồng hồ . Để tránh những trở ngại có thể xảy ra , Kameyama chuyển ngay bản tài liệu hướng dẫn cùng 13 phần chính của văn bản cùng một lượt đến tổng đài điện tín , nửa tiếng đồng hồ sau , tài liệu hướng dẫn đã đến văn phòng Tòa Đại Sứ Nhật Bản tại Hoa Thịnh Đốn . Tiếp theo là 13 phần còn lại tuần tự được gửi đi . Kameyama ra về lòng thơ thới nhẹ nhỏm vì chắc chắn rằng văn bản đã đến tay người nhận trước thời hạn cho phép .


    Hạm đội xung kích Kido Butai âm thầm tiến theo thủy lộ hướng Đông Nam với vận tốc 20 hải lý , đèn đuốc đều tắt ngấm và mọi liên lạc bằng điện đài đều không được phép sử dụng để bảo mật tối đa . Nó đang cố gắng chống chọi với sóng gió vì đang vượt qua vùng biển giông tố . Vài tháp canh đã bị gió lốc thổi thốc bay xuống biển , sương mù dày đặc đến độ thủy thủ không thể nào nhìn thấy sự vật chung quanh họ . Nhưng dù hoàn cảnh có tệ hại như thế nào đi nữa thì họ vẫn bất chấp , lòng kiên quyết đạt cho bằng được mục đích cuối cùng đã nung đúc tinh thần họ vượt qua tất cả . Đoàn chiến hạm xung kích vẫn tiến tới đúng theo đội hình đã định .


    Quân đội Nhật đã quen dùng theo giờ giấc của Đông Kinh nên khi vượt Thái Bình Dương họ gặp phải ít nhiều trở ngại về giờ giấc . Khi xuất phát , đoàn chiến hạm đi theo thủy lộ Bắc Nam nên cùng một múi giờ , không có gì rắc rối . Bây giờ lại chuyển hướng Đông Tây để vượt Thái Bình Dương và dĩ nhiên phải đi qua những múi giờ khác nhau , giờ giấc lộn xộn bấn lên họ không còn biết ngày hay đêm nữa nên giờ ăn chỉ căn cứ theo hướng của mặt trời mà định .


  Một sự báo động làm Nagumo lo sốt vó trong ngày hôm ấy . Trước nhất là bản báo cáo từ Đông Kinh rằng họ phát giác một chiếc tàu Nga Xô đang di chuyển gần thủy lộ của hạm đội xung kích . Sáu chiếc phi cơ chiến đấu trên sàn mẫu hạm Kaga nổ máy chuẩn bị và các phi công đã sẳn sàng chờ lệnh . Nhưng rồi chẳng có gì xảy ra và không có chiếc phi cơ nào được lệnh cất cánh . Kế đến , lúc trời đã tối hẳn thì thêm một báo động ,  một thủy thủ nào đó đã phát giác phía trước có một ánh lửa bay vút lên . Tất cả thủy thủ được lệnh sẳn sàng ở các vị trí chiến đấu , súng phòng không vươn cao nòng chuẩn bị khạt đạn . Rốt cuộc cũng chẳng có gì xảy ra , ánh lửa bí mật gây xáo trộn cho đoàn quân xung kích kia vốn là chiếc bong bóng thấp sáng do mẫu hạm Kaga thả lên để định hướng gió .


                                      ………………………………………….


Hoa thịnh Đốn , Thứ Bảy ngày 06 tháng 12 năm 1941 .


  Căn cứ theo bản báo cáo khá chi tiết của Bộ Hải quân Hoàng Gia Anh gửi đến : “Một đoàn công voa với 35 dương vận hạm vận chuyển quân sự , 8 tuần dương hạm và 20 khu trục hạm của Nhật Bản đang tiến vào bán đảo Mã Lai” . Đây là một bản báo cáo gây xôn xao cho giới quân sự cao cấp Hoa Kỳ , họ tỏ ra đặc biệt quan tâm và nhiều cuộc bàn cải diễn ra . Trong một cuộc họp ở Bộ tổng tham mưu Hải quân , Frank Knox , Bộ Trưởng Bộ Hải quân nêu lên câu hỏi “Quí vị có nghĩ rằng Nhật Bản sẽ tấn công chúng ta?” Thiếu Tướng Hải quân Richmond Kelly Turner trả lời ngay “Thưa ông Bộ trưởng . Tôi nghĩ là không thể nào . Họ chỉ tấn công Anh quốc mà thôi vì họ chưa sẳn sàng để đối chiến với chúng ta !”


  Cả phòng họp im lặng .


  Ban giải mã trực thuộc Bộ Hải quân Hoa Kỳ đang hân hoan chuẩn bị nghỉ xả hơi ngày nghỉ cuối tuần như thường lệ . Tất cả nhân viên sẽ rời khỏi nhiệm sở vào buổi trưa thứ bảy . Dorothy Edgers , nữ nhân viên ban dịch thuật đang ngồi trước một chồng điện tín dày cộm , cô nhẩn nại ngồi đọc từng tờ điện văn một . Đó là những bức điện văn trao đổi của chính phủ Đông Kinh mà cơ quan tình báo Hải quân Hoa Kỳ “Magic” chận được gửi đến đây để dịch sang Anh ngữ và phân loại . Những nhân viên trước đây vì lý do cẩu thả nên không chịu đọc kỹ , thành thử những bức điện tín có liên quan đến Trân Châu Cảng đều được xếp chung vào loại “không quan trọng” . Dorothy vốn là một nhân viên mới nhận việc khoảng ba tuần nay mà thôi cho nên cô vẫn còn say mê công việc khá quyến rũ này .


  Tình cờ cô dán mắt vào một bức điện văn đánh gửi ngày 02 tháng 12 , từ Đông Kinh đến Lãnh sự Kita ở Honolulu , với nội dung dọ hỏi mọi hoạt động của hạm đội Hoa Kỳ và sự phòng thủ tại Trân Châu cảng . Nội dung bức điện tín kích thích sự tò mò của Dorothy nên cô tiện tay bốc thêm một bức điện khác lên đọc . Bức điện gửi ngày 03 tháng 12 , từ Lãnh sự Kita ở Honolulu gửi về Đông Kinh . Dorothy thích thú mê say đọc từ đầu chí cuối hết bản báo cáo khá dài của Yoshikawa , kể tỉ mỉ những chi tiết làm như thế nào để Otto Kuhn , một người Đức tham tiền được nhân viên tình báo Nhật lợi dụng cài lại để hoạt động ở Hạ Uy Di .


  Hai bức điện tín nói lên một điều gì đó không may cho Trân Châu Cảng , Dorothy càng thêm nghi ngờ nên cô vội mang chúng trình lên ông chánh văn phòng H.L.Bryant . Nhưng Bryant lại khoát tay bảo rằng hai bức điện văn khá dài ấy làm sao  Dorothy có thể nào phiên dịch xong nội nhật ngày hôm nay , thôi thì hãy để nó đó đến thứ Hai sẽ tính . Dorothy từ chối , cô xin được ở lại làm thêm giờ . Đến 3 giờ 30 chiều thì cô đã hoàn tất . Vừa lúc ấy vị Thiếu Tá Hải quân Alvin Kramer , trưởng ban dịch thuật đến đổi ca trực . Trông thấy Dorothy vẫn còn ngồi làm việc , thay vì khuyến khích sự nhiệt tâm tận tụy công việc của cô nhân viên thì Kramer lại quở trách và ra lệnh cho Dorothy hãy tạm gát phần công việc lại , thứ Hai tiếp tục . (Sau khi chiến tranh kết thúc , Đại Tá Rufus Bratton thuộc sở tình báo quân đội có phát biểu “Nếu chúng tôi có trong tay bản điện tín này ngày 06 tháng 12 năm 1941 thì toàn bức tranh khỏi lửa sẽ được vẽ bằng một nét khác biệt đi nhiều”)


                                ……………………………………………….


  Tại Tòa Đại Sứ Nhật Bản trên con đường Massachusetts Avenue vừa nhận được một tập tài liệu hướng dẫn (bằng Nhật ngữ) và 13 phần chính của bản giác thư (bằng Anh ngữ) từ Đông Kinh gửi đến để nhân viên Tòa Đại sứ đánh máy lại thành từng phần rồi mới chuyển cho Ngoại Trưởng Hull . Đến chiều thì những nhân viên đã đánh máy được 8 trong 13 phần của tập văn bản . Họ rủ nhau đi dự một buổi tiệc tiển đưa một nhân viên vừa được lệnh chuyển công tác sang miền Nam Mỹ .


  Tổng Thư ký Katsuzo Okumura phải tự mình đánh máy những phần còn lại , vì đây là phần quan trọng và phải bảo mật nên không thể giao cho nhân viên thuộc cấp đánh máy được . Phải mất hơn hai tiếng đồng hồ Okumura mới hoàn tất thêm hai bản nữa . Tuy chưa xong nhưng đã quá mệt mỏi nên phải nghỉ tay . Ông rời chiếc bàn làm việc bước xuống tầng hầm , nơi dành cho nhân viên giải trí sau giờ làm việc . Hai cộng sự viên đang đánh bóng bàn , còn lại ba người khác cũng đang ngồi tán gẩu . Họ đang nói về chuyện chiếc du thuyền Tatsuta-Maru , đã rời khỏi cảng Yokohama 5 ngày trước , theo lịch trình thì tàu sẽ cập bến Los Angeles ngày 14 tháng 12 này . Okumura đang rót rượu bên quầy , nghe họ nói bèn xen vào “Tôi dám đánh cuộc với mấy ông rằng Tatsuta-Maru sẽ không bao giờ tới được bến Los Angeles” .


  Trở lại với Tổng Thống Roosevelt . Sau khi tiếp kiến Jones và Baruch , ông quyết định lấy tư cách cá nhân trực tiếp trao đổi ý kiến với Nhật Hoàng Hirohito . Bức thư riêng có đoạn Roosevelt nhắc nhở cho Thiên Hoàng nhớ lại rằng gần cả một thế kỷ trước , cựu Tổng Thống Hoa Kỳ là Millard Fillmore cũng từng dùng tình cảm cá nhân mà khuyên Thiên Hoàng Nhật Bản lập mối bang giao . “Vì thế cho nên hai quốc gia đã có được một thời gian khá dài chung hưởng thái bình . Và bây giờ , tình giao hảo Mỹ Nhật không biết sẽ đi về đâu khi nền hòa bình chung ở Á Châu đang bị đe dọa . Sự chiếm đóng trái phép ở khắp vùng Nam Á của quân đội Nhật , khiến dân chúng bổn xứ hoang mang lo sợ cho một viễn ảnh chiến tranh không xa .


  Hoa Kỳ không bao giờ có ý định nhúng tay vào Đông Dương nếu nơi ấy không có sự hiện diện của quân đội Nhật Bản . Và Hoa Kỳ sẽ sẳn sàng đứng ra làm trung gian dàn xếp hòa bình với các quốc gia Nam Á nếu Thiên Hoàng triệt thoái toàn bộ binh lực ra khỏi lãnh thổ của họ .


  Tôi viết thư này với niềm hy vọng thiết tha mong Ngài thấu hiểu , mục đích của tôi chỉ mong kiến tạo một nền hòa bình chung . Tôi tin chắc rằng hai chúng ta , vì lợi ích chung cho dân chúng , không phải riêng con dân của hai quốc gia chúng ta mà thôi , mà phải vì sự an nguy của đồng loại ở các quốc gia lân bang . Vì nhiệm vụ thiêng liêng chúng ta nên hàn gắn lại tình giao hảo hầu tránh cuộc can qua có thể xảy đến sau này”


  Ông ký tên Franklin D.Roosevelt và chuyển ngay đến Ngoại trưởng Hull với lời ghi chú :


  “Cordell thân mến : Gửi thư này đến Đại Sứ Grew – Càng sớm càng tốt”


  Những biến chuyển gần đây khiến cho Henry Stimson , Bộ trưởng Bộ Quốc phòng quyết định không đi nghỉ cuối tuần ở Long Island . Ông tâm sự cùng một người bạn thân rằng tình trạng căng thẳng mấy hôm nay như báo cho ông biết một chuyện gì chẳng lành sắp xảy ra .


  Đến lúc này thì bản giác thư của Ngoại Trưởng Togo theo thứ tự 13 phần đã được đánh máy xong và sẳn sàng chờ chuyển giao . Cơ quan tình báo Hải Quân “Magic” chận bắt được toàn bộ và chuyển ngay về văn phòng tình báo trung ương . Văn bản này khi gửi đi được soạn bằng Anh ngữ nên Kramer , viên trưởng ban dịch thuật rảnh tay cứ ngồi đọc từng phần một . Khi nhận thấy bản văn thư này rất quan trọng , Kramer điện thoại ngay đến người mà ông cho là có thẩm quyền quyết định là đô đốc Knox , Bộ trưởng Hải Quân , nhưng lúc ấy Knox lại không có mặt ở văn phòng . Ông lại điện báo tin này đến giám đốc sở tình báo Hải quân và trưởng phòng kế hoạch hành quân , nhưng cả hai người này không có quyết định gì . Kramer nhìn đồng hồ thì đã quá 9 giờ tối nên không thể chần chờ được nữa liền điện thoại đến Tòa Bạch Ốc cho biết lý do và bảo rằng sẽ mang đến trình lên Tổng Thống ngay .


  Đến cửa Tòa Bạch Ốc , Kramer vội vàng trao một phong bì lớn , bên trong là toàn bộ 13 phần của tập văn bản cho Trung Úy Robert Lester Schulz , sĩ quan liên lạc phủ Tổng Thống để trình ngay cho Roosevelt . Lúc ấy Tổng Thống đang ngồi nói chuyện với cố vấn Harry Hopkins . Schulz trình ngay tập văn bản và Tổng Thống chăm chú đọc . Ông đọc một loạt 13 phần , xong lại lẳng lặng trao cho Hopkins đọc . Chờ cho Hopkins đọc xong , Roosevelt mới lên tiếng “Cái này có nghĩa là chiến tranh đây” .


  Trung úy Schulz tuy xong nhiệm vụ định rút lui ra ngoài nhưng khi nghe Tổng Thống nói như thế thì máu tò mò trổi dậy , anh đứng sớ rớ một bên lắng tai nghe hai người bàn chuyện . Hopkins thở dài nói giọng như than thở “Từ khi Nhật Bản tỏ thái độ khiêu khích thì chiến tranh đã là một vấn đề sớm hay muộn mà thôi , nhưng rất tiếc chúng ta không thể mượn cớ nào để sớm ra tay trước mà dành lấy phần tiện nghi về mình” . Roosevelt khoát tay bảo “Không ! Chúng ta không thể nào hành động như vậy được ông ạ . Chúng ta là những người dân chủ luôn yêu chuộng hòa bình mà”

  Miệng thì nói nhưng Roosevelt tiến về phía chiếc điện thoại , ông nhấc lên và quay số gọi Stark . Người nhà cho biết Stark đang đi coi phim ở rạp National Theater . Tổng Thống gát điện thoại rồi nói với Hopkins “Tôi sẽ điện cho Betty (hỗn danh của Tướng Stark) sau . Nếu mình gọi máy nhắn tin cho hắn ngay trong rạp chiếu phim thì chỉ làm cho người ta chú ý , có khi còn làm cho quần chúng xôn xao lên là khác”


  Tuy Stark vừa có được một đêm cuối tuần tuyệt vời quây quần bên vợ con , một buổi ci-nê , một chiều dạo phố nhưng tâm trí không chẳng thấy thoải mái chút nào . Chiến tranh sắp xảy ra đến nơi nhưng một vấn đề nan giải cho ông là chẳng biết Nhật Bản sẽ bắt đầu tấn công ở đâu . Quân đội họ đang di chuyển về hướng vịnh Thái Lan , thế thì mũi tiến công của họ có thể là Tân Gia Ba nhưng cũng có thể Mã Lai hoặc Phi Luật Tân ? Nhưng dù ở nơi nào đi nữa Stark vẫn không bao giờ nghĩ đến một nơi quá xa xôi như Hạ Uy Di . Và cũng nên biết , Hạ Uy Di là nơi tiên phong vẽ ra kế hoạch phối hợp Hải-Lục quân để bảo vệ Trân Châu Cảng hầu chống lại mọi cuộc tập kích bất ngờ , một kế hoạch mà Tướng Stark ngợi khen không hết lời và đã khuyên những vị chỉ huy các quân cảng khác xem đó như một mô hình phòng bị mẫu mực đáng để noi theo . Thế thì ông còn lo gì Hạ Uy Di nữa .


  Tướng Sherman Miles , giám đốc phòng tình báo quân đội , đêm ấy đi dự một buổi tiệc tại tư gia của Theodore S.Wilkinson , giám đốc sở tình báo Hải quân , nhờ vậy nên ông có dịp đọc được 13 phần của văn bản . Nhưng đối với Miles thì “nó chẳng có ý nghĩa quân sự đến nổi phải quan tâm” nên tỏ ta không để ý đến . Sau đó ông ta điện thoại cho Đại Tá Bratton , một thuộc cấp rất am tường Viễn Đông , và cho Bratton biết rằng “chẳng có gì đáng kể , đừng báo động đến tai Tướng Marshall” . Trong lúc ấy , Tướng Marshall đang cùng vợ an hưởng một buổi tối cuối tuần êm ả tại tư gia . Khuya hôm ấy ông lên giường với cõi lòng hân hoan thơ thới , rằng ngày mai Chúa Nhật , ngày nghỉ nên khỏi phải ra nhiệm sở .


  Kim đồng hồ đã chỉ quá nửa đêm , những giây phút đầu tiên của ngày 07 tháng 12 . Vài vị sĩ quan cao cấp Hoa Kỳ vẫn còn thao thức chưa ngủ được . Họ trằn trọc chỉ với một câu hỏi “Bao giờ thì Nhật Bản sẽ hành động – và ở nơi nào ?” Không có một ai – Roosevelt , Hull , Stimson , Knox , Marshall hoặc Stark – có thể đoán ra rằng Nhật sẽ tấn công Trân Châu Cảng .


                               ……………………………………..


   Oahu chiều thứ Bảy . Cũng như Stark và Marshall , cấp chỉ huy Hải Lục quân ở Hạ Uy Di đều lạc quan tin tưởng ở việc bố phòng quá cẩn thận nên nghĩ Trân Châu Cảng là một quân cảng bất khả xâm phạm , tấn công nó chỉ là một hành động tự sát mà thôi .


  Tướng Walter Short cùng vợ trên đường từ nhà tới câu lạc bộ sĩ quan . Đêm ấy là đêm thứ Bảy nên câu lạc bộ có tổ chức một buổi trình diễn đặc biệt gây quỹ từ thiện . Trên đường đi ông ghé qua văn phòng làm việc tại Fort Shafter để dự một buổi họp khẩn với các sĩ quan an ninh tình báo . Ông định bụng phiên họp chỉ kéo dài khoảng nửa tiếng là xong nên để cô vợ ngồi chờ trong xe . Buổi họp thảo luận về đoạn băng do nhân viên FBI vừa thâu lén được của một cư dân người Nhật trong cuộc điện đàm đầy nghi vấn . Người này vốn là một nha sĩ đang hành nghề tại Hạ Uy Di , vì đã nhiều lần gọi điện thoại viễn liên nói chuyện với một nhà báo ở Đông Kinh  nên bị nhân viên FBI tình nghi có thể hắn đang hoạt động tình báo cho Nhật , vì thế nhất cử nhất động của gã nha sĩ này đều bị theo dõi và dĩ nhiên đường dây điện thoại cũng bị bí mật thu âm . Đáng để ý nhất là cuộc điện đàm vừa mới đây có nhiều nghi vấn khiến cho nhân viên an ninh tình báo tức tốc trình lên ngay cho thượng cấp thẫm định . Những câu hỏi lạ lùng có vẻ quá tò mò của người ở đầu dây bên kia tức là gã nhà báo nào đó tại Đông Kinh , hắn hỏi tất cả về Hạ Uy Di , như phi cơ , đèn tín hiệu , thời tiết và ngay cả hoa lá trên đảo nữa . Chẳng hạn như cuộc điện đàm có đoạn anh nhà báo ở Đông Kinh nêu lên câu hỏi rằng “Hoa dâm bụt và trạng nguyên ở đó đã nở cả chứ ?” Với ngụ ý gì và phải chăng là ám hiệu cho nhau ?


  Suy đi nghĩ lại mãi mà chẳng ai tìm được một giải đáp khả dĩ khiến cho buổi họp kéo dài hơn một tiếng đồng hồ . Phu nhân của Tướng Shorts chờ lâu quá nên phát cáu gắt gỏng chửi thề luôn miệng khiến cho ông Tướng nhà ta lên ruột , khoát tay ra hiệu giải tán cuộc họp , ông nói “Hiện tại mình cũng chẳng làm được gì thôi thì để ngày mai tính sau” . Nói xong ông ra xe hối thúc vợ lái cho nhanh để kịp lúc khai mạc buổi trình diễn .


  Phần Đô Đốc Kimmel thì dù rất muốn có được một buổi tối cuối tuần thảnh thơi để nghỉ ngơi cho thoải mái nhưng kẹt lại phải đi dự một buổi dạ tiệc . Khoảng 9 giờ 30 Kimmel xin lỗi cáo từ ra về , suốt buổi sáng hôm ấy ông cùng Tướng Short chơi đánh “gôn” nên bây giờ sau vài ly rượu ông cảm thấy mệt và chỉ muốn đi về ngủ .


  Đô Đốc Kimmel vốn là một sĩ quan năng nổ và đầy nhiệt tâm với chức nghiệp , những biến chuyển gần đây đã khiến cho ông không có được một giây phút thoải mái dù là ngày nghỉ . Lên giường rồi mà đầu óc ông vẫn còn nặng nề với những miên man suy tính . Suy tính ở một ngày mai : chiến tranh và trách nhiệm .


  Cả hai vị Tướng Kimmel và Short đều có chung một cảm nghĩ là không cần thiết phải đặt quân đội trong tình trạng báo động . Cảnh báo đến từ Hoa Thịnh Đốn thì chỉ nói chung chung chứ đâu có cả quyết rằng Trân Châu Cảng sẽ bị không tập .Tuy hai vị chỉ huy không báo động nội bộ nhưng chia nhau ngấm ngầm gia tăng phòng bị , đề phòng mọi cuộc tấn công bất ngờ mà với họ thì tiềm thủy đỉnh có thể là một mối lo chính . Và có lẽ vì quá bận rộn hoặc vì một lý do nào đó mà hai vị chỉ huy này bỏ qua không để ý đến một vấn đề hết sức trọng đại có liên quan đến Hạ Uy Di , đó là bản báo cáo đề cập đến vụ Tòa Lãnh sự Nhật Bản ở Honolulu đã cho đốt tất cả giấy tờ quan trọng hai ngày trước đây . Vì thế cho nên ngay lúc này , đội xung kích của Nhật đã tiến đến gần kề mà mục tiêu của nó vẫn vô tư vui nhộn xoay quanh theo hoạt cảnh của một điệu nhạc thanh bình : trai thanh gái lịch tay trong tay bát phố chiều cuối tuần . Nhà hàng , rạp cine vẫn ồn ào huyên náo như mọi chiều thứ Bảy .


  Trên trời đội tuần thám vẫn hoạt động nhưng thưa thớt hơn . Thủy thủ của tất cả 94 chiến hạm đang bỏ neo tại quân cảng , ngoại trừ những phiên gác đêm , còn lại đã chuẩn bị đi ngủ . Thêm một buổi tối uể oải  giữa vùng nhiệt đới yên lặng đi qua .


  Những nhân viên FBI dù đã trãi qua hàng chục buổi họp , bàn cãi nhau khô cả nước miếng , nghĩ đến nát óc và cố bám sát gã nha sĩ người Nhật đáng tình nghi kia nhưng cuối cùng rồi cũng chẳng tìm ra được một chút manh mối gì . Họ có ngờ đâu tại một văn phòng nhỏ xíu ở Tòa Lãnh sự Nhật , Tadashi Yoshikawa mới đích thị là một điệp viên do Hải quân Hoàng gia Nhật cử sang với cái tên giả là Morimura . Đêm ấy hắn làm việc rất trể để hoàn tất bản báo cáo cuối cùng . Vài giờ trước đây hắn đã gửi một bức điện tín về Đông Kinh , trong đó Yoshikawa đã quả quyết rằng các chiến hạm của Hoa Kỳ không có trang bị lưới chống thủy lôi và bầu trời Trân Châu cảng cũng chẳng có thả bong bóng phòng không . Ngay bây giờ thì hắn đang ngồi cập nhật những chiến hạm vừa bỏ neo trong quân cảng : 9 thiết giáp hạm , 3 tuần dương hạm , 3 tiềm thủy đỉnh và 17 khu trục hạm cũng như 4 tuần dương hạm và 2 khu trục hạm đang bỏ neo phía ngoài cảng . Sau đó hắn còn cho biết thêm đã có 1 tuần dượng hạm hạng nặng và 1 mẫu hạm vừa rời quân cảng nhưng không có phi cơ dọ thám hướng dẫn .


   Đến nửa đêm thì Yoshikawa viết xong bản báo cáo cuối cùng , hắn gõ cửa nhân viên điện đài và trao cho y bản báo cáo để chuyển mã gửi ngay về Đông Kinh . Xong nhiệm vụ , Yoshikawa đi một vòng quanh sân Tòa lãnh sự , từ đó hắn nhìn thấy ánh sáng bừng lên một vừng tỏa rộng trong đêm đen nơi quân cảng , trên trời sao giăng lấp lánh nhưng chẳng có một chiếc phi cơ tuần thám nào xuất hiện . Yoshikawa vươn vai vài lượt rồi đi vào phòng lên giường ngủ .


 Trở lại Manila , thủ đô Phi Luật Tân . Chiều ngày 07 tháng 12 , một buổi chiều khô khan nóng bức . So với Hoa Thịnh Đốn và Hạ Uy Di thì tình trạng ở đây càng lúc càng căng thẳng ngột ngạt vô cùng , người dân Phi Luật Tân đã biết quá rõ chiến tranh có thể bùng nổ bất cứ giờ phút nào ngay trên quê hương của họ . Lại thêm một báo cáo có sự xuất hiện của một phi cơ lạ trên bầu trời căn cứ Clark Field .


  Đêm ấy , Phi đội oanh tạc 27 được tham dự một buổi tiệc chào mừng hết sức long trọng tại khách sạn Manila để tỏ lòng trân trọng đến Trung Tướng Lewis H.Brereton , người vừa được MacArthur đề cử vào chức vụ chỉ huy trưởng không lực vùng Viễn Đông . Buổi tiệc tuy vui nhưng không khí sao quá nặng nề , có lẽ trong lòng mọi người mãi canh cánh với viễn ảnh chiến tranh sắp xảy đến nên trong câu nói tiếng cười dường như còn chứa đựng một cái gì đó lo âu và sợ sệt . Tiệc sắp tàn , Đô Đốc Hart đứng dậy đi đến ngồi xuống bên Brereton và nói “Chung qui chỉ có mỗi một câu hỏi là còn mấy ngày hoặc mấy giờ nữa thì súng sẽ nổ” . Vị sĩ quan tham mưu của Tướng Arthur ngồi gần đó liền góp tiếng vào “Tôi tin là nó sẽ xảy ra bất cứ lúc nào ông ạ”.


  Không thể chần chờ được nên ngay đêm ấy Brereton gọi điện thoại cho sĩ quan tham mưu của mình hạ lệnh cho tất cả căn cứ không quân phải đặt trong tình trạng báo động đặc biệt để sẳn sàng ứng chiến . May mắn thay , giữa lúc ấy một số lượng lớn vũ khí tiếp liệu cũng đang trên đường vận chuyển đến . Theo lịch trình thì đoàn công voa sẽ cập bến ngày 04 tháng giêng , với 52 phi cơ oanh tạc , 2 trung đoàn pháo binh cùng vô số quân trang quân dụng và đạn dược . Tiếp theo đó là 30 pháo đài bay cũng đến bến trong vài ngày sau đó . Tính theo nguồn tiếp liệu này thì tổng số phi đội trong tay của Tướng Brereton tăng lên gấp đôi lúc trước .


  Cách căn cứ Clark Field 50 dặm đường chim bay theo hướng Tây Bắc , 16 pháo đài bay đang sắp hàng sẳn chờ lệnh chiến đấu . Cánh đồng hoang nằm im lìm trong màng đêm tịch mịch , tiếng côn trùng rả rít hòa điệu với tiếng gió thổi lao xao qua tàn cây ngọn cỏ . Thỉnh thoảng tiếng cú ăn đêm từ đâu kêu vọng về , âm thanh rờn rợn khiến cho khung cảnh càng thêm thê lương ảm đạm .


  Bây giờ ta cũng nên ghé lại với Tân Gia Ba . Một đảo quốc với diện tích  220 dặm vuông , một tiền đồn phòng thủ quan trọng bậc nhất của phe đồng minh tại Á châu . Nếu Tân Gia Ba mất , không riêng gì Mã Lai mà cả một dãy Tây ngạn Ấn Độ , một thuộc địa dồi dào tài nguyên của Hòa Lan cũng không thể nào giữ vững được . 


  Đêm ấy đèn hỏa châu cháy sáng rực cả một vùng trời Tân Gia Ba . Hai chiếc thiết giáp hạm hùng vĩ : Repulse và Prince of Wales đang thả neo bên ngoài căn cứ Hải quân . Tất cả đã nhận được lệnh báo động sẳn sàng nghinh chiến . Và lệnh này còn được truyền đi cho tất cả cấp chỉ huy Mã Lai , Anh , Úc và Ấn .


  Cách đó khoảng 1 ngàn 650 dặm về hướng Bắc , một căn cứ Hải quân khác của Anh – Hương Cảng – Chỉ với dăm phút đi phà là đến lục địa Trung Hoa , nơi ấy 11 nghìn 319 tay súng cũng chuẩn bị sẳn sàng chiến đấu .


  Từ Hoa Thịnh Đốn đến Tân Gia Ba , Phi Luật Tân và Hương Cảng , tất cả đều nghĩ rằng chỉ trong vòng vài tiếng đồng hồ nữa thôi thì Nhật Bản sẽ nổ súng . Có rất nhiều nơi “đã sẳn sàng nghinh chiến” bằng tất cả sức mạnh quân sự sẳn có , tuy nhiên cũng có không ít căn cứ thi hành lệnh “nghinh chiến” đơn thuần chỉ bằng lời nói . Nhưng người ban mệnh lệnh ấy dĩ nhiên là những kẻ nhìn xa thấy rộng , biết rõ thâm ý của Nhật , nhưng bởi quá lạc quan nên bị Nhật dễ dàng qua mặt để rồi phải ngậm ngùi với một Trân Châu Cảng bình địa và buông bỏ cả Tân Gia Ba trong những giờ phút đầu cuộc chiến .


                                         ………………………..


  Lá thư “kêu gọi hòa bình” do cá nhân Tổng Thống Roosevelt gửi cho Nhật Hoàng Hirihito đã đến Đông Kinh trưa ngày Chúa Nhật 07 tháng 12 , 1941 . Nhưng nó phải giử lại 10 tiếng đồng hồ với một lý do đơn giản là “an ninh quốc phòng” . Vài ngày trước đây Trung Tá Morio Tomura , sĩ quan Bộ Tham Mưu quân đội có điện thoại cho người bạn của ông là Tateki Shirao , nhân viên kiểm duyệt thuộc bộ Thông tin , chỉ thị cho người này phải giữ lại tất cả điện tín đến từ ngoại quốc ít nhất trong khoảng 5 hoặc 10 tiếng đồng hồ để tiện bề kiểm duyệt .


  Đại Sứ Grew đã nghe phong phanh về lá thư “kêu gọi hòa bình” này qua tờ Nhật báo San Francisco nhưng chẳng nhận được cho đến 10 giờ 30 tối đêm ấy . Sự trễ muộn ấy khiến cho ông ta khó chịu vô cùng và gần đến nửa đêm , Grew cùng bức thư ấy mới đến được văn phòng của Ngoại Trưởng Togo . Grew bảo với Togo rằng ông đang cầm trên tay lá thư riêng của Roosevelt kính gửi lên Thiên Hoàng . Togo vui vẻ nói rằng sẽ dâng lên Ngài ngay . Sau khi Grew ra về , Togo điện thoại đến Bộ Nội Vụ Hoàng Cung xin gặp ông bộ trưởng Tsuneo Matsudaira để trình bày tự sự và hỏi trường hợp quá trễ như thế này nếu phiền đến Thiên Hoàng sẽ có gì rắc rối không . Matsudaira ngẫm nghĩ giây lâu rồi cho Togo biết phần ông chỉ lo việc lễ hội triều nghi thôi chứ lá thư kia ít nhiều có dính dáng đến chuyện chính trị , Togo nên hỏi qua ý kiến của Kido thì hơn . Togo vội điện thoại cho Kido . Lúc ấy viên Quản Thủ Quốc Ấn đang ngồi tại tư gia ở Akasaka . Nghe Togo trình bày , Kido nói “Việc hệ trọng như thế này nếu không tâu lên cho Thiên Hoàng ngay thì sẽ bị Ngài khiển trách . Thôi , để tôi nhập cung ngay kẻo muộn mất” .


  Togo cũng từ giả rồi lái xe thẳng tới văn phòng Thủ Tướng tại tư gia để hội ý cùng Tojo về bức thư kia . Tojo vào đề với câu hỏi “Trong thư đại ý như thể nào , họ có chịu nhượng bộ chút nào không ?” Togo trả lời rằng không , Thủ Tướng Tojo nhún vai tiếp “Thế thì chẳng có gì phải bàn . Đúng không ?” Tuy nói thế nhưng hai ông cũng ngồi lại để cùng thảo luận việc viết thư hồi âm , phải nên những từ ngữ nào tế nhị và lịch sự để từ chối khéo “hảo ý” của Roosevelt . Xong đâu đó Togo đứng lên cáo từ . Tojo mới bảo “May cho chúng ta là bức thư này đến quá trễ , nếu không thì chắc phải điên đầu vì họp hành và bàn cãi”.


  Togo quay trở lại Hoàng Cung thì thấy Kido còn đang ở đó chờ mình . Viên quản thủ Quốc Ấn chạy đến bên Togo , có lẽ ông đã được đọc lá thư của Roosevelt rồi nên sắc mặt có vẻ kém phần lạc quan như lúc ban đầu . Nhìn Togo , Kido nói “Tưởng đâu có gì quan trọng đặc biệt lắm . Ai ngờ vẫn bổn cũ soạn lại mà thôi” . Đoạn ông xuống giọng hỏi nhỏ “Còn ý kiến của Thủ Tướng thì sao ?” . Togo xòe hai bàn tay ra trước lắc đầu bảo “Thì cũng giống hệt như Ngài thôi !”


                                      …………………………….


  Giữa lúc Đại Sứ Grew nhận được bức thư “kêu gọi hòa bình” của Tổng Thống Roosevelt thì tại Hoa Thịnh Đốn lúc ấy là 8 giờ sáng ngày 07 tháng 12 . Krammer , trưởng ban dịch thuật thuộc phòng tình báo Hải quân Hoa Kỳ đang ngồi đọc phần thứ 14 , một phần cuối cùng và quan trọng nhất của bản giác thư mà Đông Kinh gửi đến Đại Sứ Nomura để chuyển đến Ngoại Trưởng Hull , nó vừa bị cơ quan tình báo Hải quân Hoa Kỳ phát giác . Và cũng như lần trước với 13 phần của văn bản , Krammer cho sao ra làm mấy bản rồi tự tay lái xe đi một vòng để trình lên thượng cấp , những người mà ông nghĩ rằng có đủ quyền hành để thẩm định . Xong ông trở lại văn phòng thì kim đồng hồ lúc ấy chỉ đúng 10:20 sáng . Một bức điện tín quan trọng khác đã nằm sẳn trên bàn . Ông cầm lên đọc thì đó là bức điện tín khẩn “tối mật” của Ngoại trưởng Togo ở Đông Kinh gửi đến Đại Sứ Nomura ở Hoa Thịnh Đốn , đại ý là truyền lệnh cho Đại Sứ Nomura phải đệ trình toàn bộ 14 phần của văn bản thông báo ngoại giao đến cho Ngoại Trưởng Hull đúng 1 giờ chiều .


  Bức điện tín “một giờ chiều” này càng làm cho Krammer thêm thắc mắc . Anh ta tự hỏi tại sao lại phải đúng 1 giờ chiều ? Sẳn có tấm bản đồ thế giới trải trên bàn viết ngay trước mặt , Krammer vội lấy bút chì khoanh tròn theo từng múi giờ trên mặt giấy , ông chợt phát giác ra một điều lý thú là 1 giờ chiều ở Hoa Thịnh Đốn sẽ là 7:30 sáng ở Hạ Uy Di . Đã từng công tác ở Trân Châu Cảng trong 2 năm nên Krammer đâu còn lạ gì với cảnh sinh hoạt của quân cảng vào mỗi sáng sớm Chúa Nhật – buổi sáng của sự lười biếng trong yên lặng – Không biết Krammer đã nghĩ gì mà trông dáng vẻ của anh ta hơi bối rối , chỉ thấy anh đứng lên miệng lảm nhảm nói thầm rồi co chân chạy vút đi . Một thoáng sau người ta đã thấy Krammer chạy lùa vào văn phòng của Đô Đốc Stark như một cơn gió lốc .


  Trở lại đại lộ Massachusetts  , tình trạng bên trong Tòa Đại Sứ Nhật Bản gần như quá bề bộn không ngăn nấp như mọi ngày . Nhân viên giải mã vừa trở lại với công việc sau buổi tiệc chia tay với một nhân viên vừa hoán chuyển với nhiệm vụ mới . Khi đã mệt nhoài với buổi tiển đưa họ còn phải thức để đợi hoàn tất công việc đánh máy 13 phần văn bản cho đến khuya mới ra về . Cuối cùng thì phần thứ 14 và một số điện tín quan trọng khác cũng được Đông Kinh gửi sang . Nhân viên trực cho gọi tất cả phải vào làm việc ngay , lúc này là 10 giờ sáng . Mọi người lần lượt đến và bắt tay vào việc mặc dù lắm người phàn nàn đêm qua thiếu ngủ . Viên chánh thư ký Okumura chậm chạp mò mẫm bên bàn máy đánh chữ với phần cuối cùng mà cũng là phần quan trọng nhất của văn bản , phần thứ 14 . Ông cố gắng đánh cho thật đúng , thật kỹ vì e gây lỗi lầm đáng tiếc cho tờ văn bản quan trọng . Vốn là một người đánh máy không chuyên nghiệp nên sau hai tiếng đồng hồ cố gắng mà công việc vẫn chưa đi đến 1 phần 3 đoạn đường .


  Nomura dù đã được chỉ thị của Đông Kinh là phải đệ trình toàn bộ văn bản cho Ngoại Trưởng Hull lúc 1 giờ chiều , nhưng hiện tại đã quá 10 giờ 30 sáng mà trong tay ông chỉ có 13 phần , phần còn lại đã đánh gửi sang 3 tiếng rưỡi đồng hồ rồi mà sao họ lại chưa mang đến cho ông . Nghĩ đến đó Nomura càng nôn nóng chờ đợi . Ông điện thoại đến văn phòng Hull để xin một cái hẹn đến gặp Hull nhưng thư ký cho biết Hull đã rời văn phòng đi ăn trưa rồi . Nomura vội khẩn khoản “Sự việc tối quan trọng , nếu không gặp được ông ta thì xin cho tôi được diện kiến phụ tá của ông cũng được” . Và một phút im lặng sau đó đầu dây bên kia cho biết ông có thể đến gặp Ngoại Trưởng Hull .


  Cho đến lúc này thì Okumura đã hoàn thành 14 phần của văn bản nhưng khi kiểm lại ông nhận ra trong đó vô số lỗi lầm và tẩy xóa . “Văn bản ngoại giao của Đại Nhật chẳng lẽ lại khó coi như thế này sao” Nghĩ như vậy nên Okumura quyết định đánh máy lại toàn bộ văn bản . Lần này ông chia ra thành nhiều phần và do nhiều nhân viên phụ giúp , họ bỏ cả buổi nghỉ giải lao để cố gắng hoàn thành trước 1 giờ chiều để chuyển đến Đại Sứ Nomura mà đệ trình lên Ngoại trưởng Hull .


  Trong lúc Nomura điện thoại lấy hẹn đến gặp Hull thì Krammer đang bước vào văn phòng của Đô Đốc Stark . Vị Đô Đốc Hải quân đang ngồi trước bàn đọc phần thứ 14 của văn bản mà Krammer mang đến cho ông không lâu trước đó . Kammer vào gặp ông và vào đề ngay . Anh ta vạch ra cho Stark thấy rõ sự việc quan trọng có thể xảy ra bằng lối ám chỉ 1 giờ chiều , đối chiếu theo múi giờ rồi suy luận thì quả quân cảng ở Hạ Uy Di có nhiều nguy cơ bị tấn công .


  Đô Đốc Stark ra chiều suy nghĩ . Krammer không chần chờ được nên giục “Xin Đô Đốc điện thoại báo ngay cho Đô Đốc Kimmel biết !” . Stark cầm lấy điện thoại nhưng không quay cho Kimmel , ông nghĩ mình đã báo động cho họ hôm 27 tháng 11 rồi . Vã lại chuyện đột kích Trân Châu Cảng là một chuyện khó còn hơn lên trời . Nhật không thể nào thực hiện được . Nghĩ thế nên Stark bảo trước phải cho Tổng Thống biết rồi sẽ liệu . Ông quay số Tòa Bạch Ốc nhưng điện thoại của Tòa Bạch Ốc đang bận .


   Đại Tá Bratton , một thuộc cấp thân tín của Tướng Miles giám đốc sở tình báo quân đội , người rất am tường Viễn Đông đã không coi 14 phần của văn bản là một mối nguy hiểm đến mức phải lên tiếng báo động chiến tranh , nhưng bây giờ ông lại phải “điên lên” vì bức điện tín “một giờ chiều” . Đoan chắc rằng Nhật sẽ tấn công vào các căn cứ quân sự của Hoa Kỳ cho nên Bratton điện thoại tìm Tướng Marshall , Tham Mưu Trưởng Lục quân Hoa Kỳ . Nhân viên thường trực là Trung sĩ Aquirre trả lời Marshall không có mặt ở văn phòng .

  Hôm nay dù ngày nghỉ nhưng Tướng Marshall vẫn thức dậy lúc 6 giờ 30 sáng như thường nhật . Vì không bận bịu gì nên hai ông bà dành trọn vẹn buổi bình minh cho ly cà phê và bửa điểm tâm . Đây là một ngày nghỉ nên hai người muốn dành hết thì giờ nhàn rỗi bên nhau , họ thật sự muốn có được chuổi ngày yên lặng để hưởng trọn vẹn những ngày hạnh phúc còn lại . Sau hai lần trụy tim sức khỏe của ông bị suy sụp trầm trọng . Ông thường bảo “Tôi phải cố kềm chế để không bao giờ nổi nóng , vì như vậy sẽ rất nguy hiểm cho tính mạng” . Và ông vẫn hay nhắc nhở bà vợ rằng “Đầu óc của tôi phải luôn giữ thoải mái bà ạ” . Khi dùng điểm tâm xong hai ông bà mới nắm tay dắt nhau đi dạo .


  Đến lúc ông trở lại thì kim đồng hồ đã chỉ 10 giờ 25 . Sau khi nghe Trung sĩ Aquirre cho biết Đại Tá Bratton có gọi điện tìm , Marshall liền điện ngay đến văn phòng Bratton . Sau khi hỏi ra cớ sự rồi chờ Bratton mang tờ điện tín đến , khi trong tay Marshall cầm được tờ điện tín “một giờ chiều” thì kim đồng hồ đã nằm chênh chếch quá 11 giờ trưa rồi . Cũng như Bratton , bức điện tín này như một cú sốc mạnh khiến cho ông Tướng bàng hoàng , ông vội vã dùng điện đài gửi quân lệnh cho tất cả chỉ huy trưởng trực thuộc Thái Bình Dương một báo động đặc biệt vì đúng 1 giờ chiều hôm nay Nhật Bản sẽ đưa ra tối hậu thư .


  Kế đến Marshall điện thoại hỏi Stark “Ông nghĩ sao về việc gửi báo động đến toàn vùng Thái Bình Dương ?” Stark bảo “Tôi nghĩ không cần lắm đâu vì lâu nay mình đã báo động họ biết bao nhiêu lần rồi còn gì . Chỉ e gửi nữa sẽ làm cho họ rối lên thêm mà thôi”


  Marshall cúp máy , một chốc sau điện thoại lại reo vang . Lần nầy giọng của Stark trở nên nghiêm trọng hơn , ông nói “George ơi , coi bộ có mòi không xong rồi ! Tòa Đại Sứ Nhật mới gọi đòi gặp Hull đúng 1 giờ chiều này này . Thôi , tôi với ông nên cùng gửi lệnh báo động cho toàn vùng Thái Bình Dương ngay bây giờ” Nói xong Stark đề nghị nên sử dụng hệ thống truyền tin của Hải quân , ông khoe rằng rất nhanh chóng trong trường hợp khẩn cấp . Nhưng Marshall lại từ chối . Stark đành nghe theo nhưng khẩn khoản “George , nhớ hướng dẫn cho con cái của ông biết nhận dạng rõ đâu là Hải quân ta và địch ông nhé” . Marshall ừ rồi cúp máy , ai lo việc nấy .


  Lệnh truyền ra chỉ hơn 12 giờ trưa (giờ Hoa thịnh đốn) thì các căn cứ lớn ở San Francisco , kênh đào Panama và Phi Luật Tân đều nhận được . Chỉ có Hạ Uy Di thì trớ trêu thay , mục tiêu của cuộc không tập lại không nhận được một lệnh báo động nào cả .


  Nguyên do vì bắt liên lạc không được với các căn cứ ở Hạ Uy Di . Lúc ấy mọi liên lạc quân sự thường sử dung hệ thống vô tuyến điện . Lục quân chỉ có một máy phát 10 kw mà từ sáng sớm đã cố bắt liên lạc với các đơn vị tại Viễn Đông nhưng không được. Hải quân thì có những máy mạnh hơn, nhưng trên Thái Bình Dương có những khu vực im lặng đặc biệt chung quanh Hạ Uy Di. Như vậy chỉ còn lại đường dây liên lạc thương mại vốn có nhiều trạm tiếp vận nhưng chắc chắn hơn và nói chung thì mau hơn. Người ta dùng chính đường dây liên lạc này.


  Rủi thay, hôm ấy đường liên lạc này lại rất bận. Và tại Honolulu, để làm cho sự rủi ro thêm toàn vẹn, chiếc máy viễn ấn bảo đảm sự liên lạc giữa nhà bưu điện và bản doanh của Fort Shafer tại Oahu lại bị hư hỏng. Sau cùng, để đến được tay người nhận chính thức, Tướng Short , Tư lệnh lực lượng quân sự tại Hạ Uy Di, bức điện văn của Tướng Marshall đã phải mượn chiếc sắc cốt của một tiểu bưu lại với chiếc xe đạp, bị chen lấn trong các đám đông cản lối và bị chặn bởi các nhân viên phòng vệ dân sự vì anh ta là một người Nhật, và điện văn ấy đã chỉ đến được tay người nhận một tiếng rưỡi đồng hồ sau khi hạm đội Mỹ bị tiêu diệt .


                          …………………………………………………..


   Hạm đội liên hợp Nhật Bản đang thả neo quanh một hòn đảo nhỏ có tên là Hashirajima , họ vừa nhận được lệnh báo động , sẳn sàng rời biển Nội Hải để đi tiếp ứng hạm đội xung kích nếu cần . Yamamoto cũng vừa ban ra một quân lệnh cuối cùng , một quân lệnh không khác gì vị Đô Đốc Togo huyền thoại với trận Đối Mã oai hùng năm xưa .


  Đến lúc này thì Hạm đội xung kích đã đến gần kề lãnh hải của Hạ Uy Di . Một hạm đội gồm 6 mẫu hạm và hộ tống hạm đang từ từ tiến vào hải phận Hoa Kỳ . Đội hình thứ nhất gồm 11 chiến hạm tiến theo hình cánh cung và từ từ khép lại , điểm gặp nhau là đảo Oahu : 4 chiếc sẽ định vị ở hướng Đông Bắc Oahu , 7 chiếc khác thì dọc theo eo biển giữa hai đảo Oahu và Molokai . Đội hình thứ nhì gồm 9 chiếc tiến tới từ phía đảo Marshall : 7 chiếc sẽ nằm ở hướng Nam đảo Oahu , 2 chiếc khác đi dọc theo đảo Maui để thăm dò xem hạm đội Hoa Kỳ còn hoạt động ở căn cứ Lahaina hay không .


  Đội tiềm thủy đỉnh gồm 5 chiếc trong đội xung kích đặc biệt , vì trong đêm tối nên nổi lên khỏi mặt nước và từ từ tiến vào Trân Châu Cảng theo hướng Tây Nam . Trong mỗi tiềm thủy đỉnh đều có mang theo một tiểu tiềm thủy đỉnh A-target . Loại A-target tiểu tiềm thủy đỉnh này sẽ xâm nhập vào tận trong quân cảng , nằm chờ cho đến khi trận không tập bắt đầu mới nổi lên phóng thủy lôi vào những chiến hạm lớn nhất .


  Gần 11 giờ đêm 06 tháng 12 (giờ địa phương) , tiềm thủy đỉnh mẹ dừng lại cách mục tiêu chừng 8 dặm để thả tiểu tiềm thủy đỉnh . Vì tiềm thủy đỉnh đang nổi lềnh bềnh trên mặt nước nên những thủy thủ ra ngoài thì có thể nhìn thấy một vùng đèn sáng lòa chạy dọc theo bờ biển , thậm chí họ còn có thể đọc được dòng chữ bằng đèn neon “Waikiki Beach” nhấp nháy gọi như gọi mời trên bãi biển , lại có tiếng nhạc Jazz xập xình từ trong đảo vọng ra theo hướng gió đêm êm dịu thổi về . Bốn chiếc tiểu tiềm thủy đỉnh A-Taget đã hạ thủy , 1 chiếc bị trục trặc khó bề sửa chửa trong trường hợp này nên tạm thời không sử dụng đến . Tiềm thủy đỉnh mẹ lặn xuống và đội tiểu tiềm thủy đỉnh hướng vào Trân Châu Cảng tiến tới .


  Bấy giờ thì những mẫu hạm có nhiệm vụ phóng phi cơ thì đang thả hết tốc lực 24 hải lý một giờ để đến điểm phóng phi cơ oanh kích , đó là một vùng biển nằm ở phía Bắc Trân Châu Cảng 200 dặm . Tất cả thủy thủ đều có mặt ở vị trí chiến đấu , súng đại bác và phòng không sẳn sàng nhả đạn vào bất cứ mục tiêu nào đáng khả nghi . Đội ngũ phi công đã tập trung vào một chỗ để nai nịch chuẩn bị lúc 3 giờ 30 sáng . Họ đã viết những lá thư cuối cùng cho gia đình , tất cả vật dụng cá nhân cùng một ít móng tay và 1 lọn tóc đều cho cả vào tủ cá nhân khóa kín để chuyển về gia đình trong trường hợp đền nợ nước . Những phi công cảm tử này đều quấn thắt lưng bằng khăn , trên ấy có “nghìn mũi kim thêu” (Theo thông tục thì sợi dây lưng này như một lá bùa hộ mạng . Mẹ , vợ và chị em của anh phi công ấy tay cầm một sợi thắt lưng ra đứng ở những nơi công cộng và nhờ người qua đường mỗi người một mũi kim thêu vào sợi thắt lưng ấy cho đến khi đủ số một nghìn . Nó có nghĩa là đã có một nghìn lời cầu chúc cho sự chiến đấu giỏi và gặp nhiều may mắn) . Buổi điểm tâm được dọn ra sớm và đồ ăn tươm tất hơn mọi ngày .


  Một trở ngại lớn là ngay đêm ấy giông gió chợt nỗi lên khủng khiếp khiến cho biển động ba đào , tiếng gió rít và sóng vỗ nghe rợn người thỉnh thoảng có những đợt sóng cao ngất quét lên cả sàn mẫu hạm .  Đô Đốc Nagumo , chỉ huy trưởng đội xung kích vẫn còn lo ngại căn cứ Hải quân Lahaina , mặc dù một chiếc tiềm thủy đỉnh đang thám thính quanh khu vực Lahaina đã gửi tín hiệu về xác quyết rằng quân cảng ấy không có bóng dáng hạm đội của Hoa Kỳ ; và nguồn tin mới cập nhật do hạm đội liên hợp gửi đến cũng cho rằng hạm đội Thái Bình Dương , ngoài các mẫu hạm ra đa số còn lại đều tập trung ở Trân Châu Cảng . Nagumo ra lệnh cho phi cơ thám thính cất cánh dọ thám lần cuối một vòng cho chắc chắn trước khi hành động . Một giờ trước giờ tấn công , hai chiếc tuần dương hạm năng là Chikuma và Tone tách khỏi hạm đội tiến thẳng về phía trước . Khi chỉ còn cách Trân Châu Cảng 150 dặm thì mỗi chiếc phóng 2 thủy phi cơ thám thính . Hai chiếc hướng về phía Trân Châu Cảng và 2 chiếc còn lại rẽ sang phía Lahaina . Nhiệm vụ được giao phó cho phi công của 4 chiếc thủy phi cơ này là phải có mặt gần mục tiêu nửa tiếng đồng hồ trước khi cuộc oanh kích bắt đầu , họ sẽ dùng hệ thống radio báo cáo về bộ chỉ huy tình trạng thời tiết như mây gió v.v và quan trọng nhất là dọ thám hạm đội Thái Bình Dương xem họ đang hoạt động ở nơi nào .


  Hướng về phía Tây khoảng 6.600 dặm cách đó , một đoàn công voa gồm nhiều dương vận hạm từ từ tiến vào gần bán đảo Mã Lai bằng 3 hướng khác nhau . Mũi đổ quân chính , 4 tàu lớn tiến vào Singora ; về cánh trái , 3 tàu theo một thủy lộ khác hướng đến Pattani , 3 tàu còn lại di chuyển theo hướng Kota Bharu . Kim đồng hồ vừa điểm 12 giờ khuya giờ Đông Kinh thì tất cả đã đến được điểm đổ quân , họ dừng lại bỏ neo ngoài khơi , cách thành phố không xa lắm . Trời đêm nay dù trăng trung tuần treo lơ lửng nhưng nhiều mây che phủ khiến không gian chìm trong một màu thê lương ảm đạm , nó như đồng lõa với những mũi súng đen ngòm chực sẳn chờ giờ tấn công của cánh quân xâm lược , một cảnh tượng căng thẳng khiến cho bóng đêm đen càng huyền hoặc rùn rợn làm sao . Lúc 1:15 sáng , phi đội hộ tống xuất hiện và bắt đầu oanh tạc dọc theo bờ biển . Lệnh đổ bộ bắt đầu .


  Tiếng súng nổ khai mào cho mặt trận Thái Bình Dương vào lúc 5 giờ 45 sáng giờ Hạ Uy Di , sớm hơn quả bom đầu tiên rơi xuống Trân Châu Cảng cả 2 tiếng 15 phút . Vì đâu mà có sự chênh lệch thời gian ở hai mặt trận khác nhau như thế . Theo kế hoạch của Đô Đốc Genda và Tham mưu trưởng Hải quân Miyo đã vẽ ra lúc ban đầu thì họ đồng ý chọn lấy thời điểm trước khi mặt trời mọc để tấn công Trân Châu Cảng . Nhưng đa số phi công đều cho rằng sẽ rất nguy hiểm cho việc cất cánh trong đêm tối , Đô Đốc Genda cho lời giải thích ấy là phải nên dời giờ tấn công thêm 2 tiếng nữa , nghĩa là khi bình minh vừa ló dạng . Miyo không biết được sự thay đổi này cho đến mấy ngày sau khi hạm đội xung kích đã rời cảng Hitokappu . Đến lúc ấy thì dù biết nhưng ông vẫn phải giữ im lặng vì đã quá trễ để thông báo cho tất cả chỉ huy trên các mặt trận . Miyo nhận hoàn toàn trách nhiệm về quyết định của mình và cũng chẳng thông báo cho phó đô đốc Ito rằng súng sẽ nổ trên mặt trận bán đảo Mã Lai trước khi tiến công vào Trân Châu Cảng .


  Rồi bên này Thái Bình Dương , chiến tranh bùng nổ giữa Đông và Tây , giữa da vàng và da trắng , 2 tiếng 15 phút trước khi quả bom đầu tiên rơi xuống Hạ Uy Di , một tiểu bang của Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ . Nghi vấn được đặt ra là liệu Anh Quốc đã thông báo kịp thời cho Hoa Kỳ cuộc tấn công này để họ tổ chức phòng thủ Trân Châu Cảng ?


  Hạm đội Kido Butai nằm ở vị trí hướng Bắc cách quân cảng không đầy 200 dặm . Một vừng sáng tỏa rộng tận cuối trời Đông , bình minh đang ló dạng . Những vì sao xa xăm vẫn còn nhấp nháy yếu ớt , vài áng mây mỏng giăng giăng . Biển vẫn còn cuồng nộ điên cuồng , những làn sóng khổng lồ thỉnh thoảng quét lên sàn tàu . Lúc này những phi cơ đợt thứ nhất đã vào hàng chuẩn bị cất cánh , cứ mỗi lần sóng ào lên thì các phi công và chuyên viên bảo trì phải ôm cứng cánh máy bay để khỏi phải bị sóng cuốn đi .


    Là cờ cũ của đô đốc Togo được trang trọng thượng lên trên đỉnh cột cờ của soái hạm Akagi . Một ngọn đèn màu xanh nhạt chớp lên làm thành một vòng tròn nhỏ trong bóng đêm, đánh đấu chiếc phi cơ đầu tiên sửa soạn cất cánh. Khi chiếc phi cơ đầu tiên rú ga lướt nhẹ trên đường băng của mẫu hạm rồi bốc lên cao độ , rồi đến chiếc thứ hai , thứ ba liên tục nối đuôi nhau bốc lên không trung . Trong cái khí thế hừng hực trước giờ xung trận ấy , tất cả thủy thủ có mặt thảy đều nức lòng xúc động , họ cất tiếng reo hò vang dội, át cả những âm thanh cuồng nộ của biển động cùng tiếng gào thét của phi cơ                             


  Chứng kiến cảnh tượng hào hùng phấn khởi đó, đô đốc Nagumo đứng trên cầu soái hạm quan sát cuộc xuất quân cũng không còn cảm thấy e ngại như trước nữa. Mặc dù đêm tối và biển động, trong vòng 15 phút, tất cả 183 chiến đấu cơ, oanh tạc cơ và phi cơ phóng thủy lôi đã cất cánh hết từ sáu mẫu hạm. Các phi cơ bay vòng quanh các mẫu hạm, rồi bắt đầu nhắm hướng Trân châu cảng phóng tới. Lúc đó là 6:15 sáng ngày Chúa nhật 7-12-1941. Vì biển động phong ba bão táp dữ dội trong lúc các phi cơ Nhật phải cất cánh rời mẫu hạm, nên đô đốc Nagumo tỏ ra rất lo lắng . Nhưng cuối cùng chỉ thiệt mất có mỗi một chiếc phi cơ chiến đấu Zero , một kết quả vượt ra ngoài sự mong đợi khiến cho Đô Đốc Nagumo càng thêm phấn khởi , ông nghĩ sự thành công khởi đầu này chứng tỏ kế hoạch huấn luyện của Yamamoto có kết quả tốt và các phi công Nhật đạt được kỹ thuật bay rất cao. Các tư lệnh Nhật ước tính rằng đợt phi cơ tấn công đầu tiên của Nhật sẽ tới bờ biển Hawaii trong khoảng hơn một giờ bay. Toán phi cơ do trung tá Fuchida chỉ huy lập tức bốc lên độ cao 10,000 bộ, bên trên những lớp mây dầy đặc. Trong lúc các phi cơ tiếp tục chuyến bay sinh tử này thì mây đen tan dần và mặt trời xuất hiện, một buổi bình minh tuyệt đẹp đang ló dạng ở cuối chân trời .


  Trân Châu Cảng lúc 6 giờ 30 sáng . Cửa dẫn vào quân cảng có lắp màng lưới chống thủy lôi , màng lưới này đóng lại lúc ban đêm và sáng sớm thì mở ra để hạm đội ra vào . Chiếc tàu vớt mìn Antares đang chờ đợi bên ngoài cửa vào quân cảng chợt vô tình trông thấy tiềm vọng kính của tiểu tiềm thủy đỉnh vừa nhô lên khỏi mặt nước . Vì biết rằng tiềm thủy đỉnh của Hoa Kỳ không hoạt động ngầm trong khu vực Trân Châu Cảng nên thủy thủ trên tàu Antares báo ngay cho một khu trục hạm đang tuần tiểu gần đó . Đại Úy Hải quân William Outerbridge , một vị thuyền trưởng trẻ của khu trục hạm Ward vội cho tàu đến ngay vị trí và cuộc tấn công bắt đầu . Loạt đạn thứ nhất đi trợt , loạt đạn thứ 2 trúng ngay tiềm vọng kính và chiếc tiểu tiềm thủy đỉnh lặn mất . Cả thủy thủ trên khu trục hạm vỗ tay hoan hô như sấm cho một chiến công không ngờ .


  Lúc 6 : 51 sáng , Outerbridge báo cáo về Bộ Chỉ Huy “Chúng tôi đã phát giác và bắn chìm một tiềm thủy đỉnh địch xuất hiện trong khu vực phòng thủ của chúng ta” . Bản báo cáo tuy đã gửi đi nhưng không bao giờ tới tay Tham mưu trưởng Hải quân Hạ Uy Di là Đô Đốc Kimmel . Lúc 7:12 , Đại Úy John B.Earle mới trình bản báo cáo lên Đô Đốc Claude C.Bloch . Đọc xong , ông quay sang hỏi Đại Úy Earle “Đại Úy có biết gì về sự việc này không ?” . Earle tỏ vẻ nghi ngờ nên lưỡng lự đáp “Tình trạng này chúng ta đã gặp phải nhiều lần nhưng lần nào cũng trông gà hóa quốc cả cho nên chúng ta không thể hành động bộp chộp thiếu suy nghĩ được” . Bloch chợt nhớ lại hơn mấy tháng gần đây có cả thảy hơn 10 lần báo động về  sự xuất hiện của tiềm thủy đỉnh địch nhưng tất cả có lần nào thật đâu . Ông mới nói “Bản báo cáo này cần phải xác minh lại” .


 Và mãi đến 7 giờ 30, Đô đốc Kimmel mới được báo tin. Ông đang mặc áo quần để đi lễ nhà thờ và đành chỉ ra lệnh cho chiếc Ward tiếp tục tìm kiếm và báo cáo kết quả cho ông. Ám hiệu của chiếc Ward đối với ông có vẻ biểu dương trí tưởng tượng phong phú nhất. Ông có vẻ bực tức hơn là xúc động. Sau một cái liếc mắt cuối cùng vào trang phục, ông bước ra bãi cỏ của ngôi biệt thự xa hoa và sửa soạn đến nhập đoàn với các sĩ quan cao cấp đang cùng vợ con chờ đợi để tháp tùng ông đến nhà thờ.


   Cùng lúc ấy cũng có một báo động gửi về bộ chỉ huy Lục quân – Và cũng bị “cho vào quên lãng” – Bản báo cáo được gửi về từ một trạm rada đóng ở Mũi Kahuku có tên là trạm Opana , một trạm được thiết trí tại một địa điểm rất thích hợp nằm trên một ngọn đồi cao 250 thước phía tây bắc đảo và hướng nhìn chiếu thẳng ra khơi . Chính hai binh sĩ Joseph và Elliot đang có mặt trong trạm này . Phiên trực dài 3 tiếng đồng hồ của họ trôi qua mà không có chuyện gì lạ: không một chiếc máy bay, một chiếc tàu nào xuất hiện làm rối mặt kính được chiếu sáng như ánh trăng .


  Tướng Short có trong tay năm trạm rada được thiết lập rải rác trên các đỉnh núi cao thuộc đảo. Cho rằng bình minh là thời gian mà cuộc tấn công đáng sợ nhất, ông đã ra lệnh vì các lý do, tiết kiệm vật liệu, rằng sự canh chừng thật sự sẽ chỉ được thực hiện từ 4 giờ đến 7 giờ, tức là hai giờ trước bình minh và một giờ sau đó. Một buổi huấn luyện ngắn sẽ được tổ chức tiếp theo đó từ 7 giờ đến 8 giờ, nhưng vì ngày 7 tháng 12 là một ngày chủ nhật và vì hôm ấy không có máy bay cất cánh, cho nên năm trạm rada sẽ chấm dứt sự canh chừng vào lúc 7 giờ.


   Đến 7 giờ, Joseph sửa soạn tắt máy, nhưng Elliot vốn ít được huấn luyện hơn bạn, xin tiếp tục cuộc canh chừng với hy vọng bắt gặp được các phi cơ vận tải thông thường sắp đến giờ bay đến, Joseph chấp thuận và đứng dậy để chân cẳng giãn gân, nhưng gần như ngay lúc đó người bạn gọi anh “Này, anh nhìn coi, có cái gì kìa“.


   Joseph nghiêng người qua vai Elliot và thấy một nhóm điểm sáng mà số lượng mỗi giây một nhiều , lúc ấy là 7 giờ 06 phút sáng . Anh không tin vào mắt mình nữa , đó là một hình ảnh mà anh chưa từng trông thấy bao giờ . Joseph lại thừ người suy nghĩ một lúc rồi cùng Elliot kiểm tra lại máy móc xem có bị trục trặc gì không . Nhưng tất cả đều hoạt động bình thường. Không còn nghi ngờ gì nữa, đó là một đoàn phi cơ đang bay hết tốc lực đến gần và cách 180 cây số về phía bắc đông bắc.


   Elliot liền xác định vị trí của đốm sáng ấy : 137 dặm phía Bắc , 3 độ Đông . Anh mất hết bình tỉnh , lúc đầu còn lưỡng lự suy nghĩ nhưng sau đó lại quyết định quay ra báo cáo ngay về trung tâm Tin Tức ở Fort Shafter .


 Mỗi trạm rada có đường liên lạc điện thoại với Trung tâm Tin tức của Fort Shafter. Hôm đó một sĩ quan không quân, trung uý Kermit Tyler, là sĩ quan trực. Ông có một bản đồ lớn treo tường để định vị trí và một tổng đài điện thoại nối liền với tất cả phi trường trên đảo và các bộ chỉ huy hành quân khác.


  Khi nghe đầu dây nơi tiền trạm do Joseph báo cáo rằng “đốm sáng” ấy càng di chuyển đến gần và bây giờ thì chỉ còn cách Oahu khoảng 9 dặm . Lúc mới nghe báo cáo Trung Úy Tyler rất đổi ngạc nhiên nhưng anh ta nhớ lại có nghe thoáng qua một hiệu lệnh phát đi từ đài truyền tin KGMB tại Oahu nói rằng, một đoàn pháo đài bay từ lục địa sẽ bay đến lúc 8 giờ. Chắc chắn đoàn phi cơ đã bay quá lên phía bắc và giờ đây chuyển về hướng nam về phía phi trường Hickam . Nghĩ như thế nên Tyler bảo rằng “Đừng có lo , đấy nếu không là phi đội pháo đài bay đến từ đất liền bay ra nếu không thì cũng là phi cơ của mẫu hạm nào đó đang tuần tiểu mà thôi” rồi cúp máy .


  Lúc ấy tại Hoa Thịnh Đốn . Cái hẹn gặp Ngoại Trưởng Hull lúc 1:00 làm cho Đại Sứ Nomura nôn nóng đến lên ruột . Đã 12 giờ 30 rồi , chỉ còn 30 phút nữa thôi nhưng 14 phần của văn bản thông báo vẫn còn rối tung bên cạnh Okumura . Nomura dù nôn nóng đến đâu cũng không dám lên tiếng hối thúc chỉ e nhiều áp lực quá sẽ tạo ra nhiều lỗi lầm nữa thì nguy to . Ông đi ra đi vào rồi đứng đưa mắt như khẩn cầu Okumura và phụ tá của ông cố gắng làm việc nhanh lên . Chỉ nhìn đôi tay của Okumura mò mẫm trên bàn phím và gõ từng chữ một bất giác Nomura thở dài thườn thượt than thở một mình “Coi ra thì phải trễ đến cả tiếng đồng hồ chớ không sớm hơn được đâu” .


  Hai chiếc thủy phi cơ xuất phát từ chiến hạm Tone và Chikuma đang lơ lửng trên không phận Hạ Uy Di . Một chiếc hiện thám thính căn cứ Lahaina và một chiếc khác cũng đang tiến gần đến bầu trời Trân Châu Cảng . Không có một người nào dưới đất để ý đến hai chiếc thủy phi cơ dọ thám của Nhật đang đảo quanh trên đầu họ , tệ hơn nữa là cũng chẳng có một nhân viên truyền tin liên lạc nào lắng nghe bản báo cáo của chiếc phi cơ trên bầu trời Lahaina gửi về Soái Hạm bằng sóng radio lúc 7 giờ 35 sáng :


  “Không có mặt của hạm đội địch ở Lahaina”


  Vài phút sau một báo cáo tiếp theo :

  “Hạm đội địch đều tập trung ở Trân Châu Cảng”


  Đó mới là những báo cáo thú vị nhất khiến cho Kusaka sung sướng như điên . Nỗi mừng vui chưa tan biến trên nét mặt của vị Thiếu Tướng chỉ huy phi đoàn thứ nhất thì bản báo cáo thứ 3 gửi đến :


  “Toàn vùng Oahu có ít mây che nhưng trên bầu trời Trân Châu Cảng thì trong sáng” .


  Vị Thiếu Tướng 48 tuổi đưa mắt nhìn về hướng quân cảng miệng nở một nụ cười hân hoan nhưng đầy bí hiểm .


                                    ………………………………


  Ngay lúc ấy , Ngoại Trưởng Togo đang trên đường đến Hoàng Cung . Bất giác ông ngước lên nhìn bầu trời , đêm khuya thanh vắng ánh trăng trung tuần treo lơ lững giữa muôn ngàn vì sao lấp lánh như đang  hứa hẹn một ngày đẹp trời sắp bước sang . Togo mĩm cười một mình rồi rảo bước nhanh theo viên quan hướng đạo đi thẳng vào nội điện , nơi ấy Thiên Hoàng Hirohito đang thiết triều . Đây là một buổi chầu đặc biệt vào lúc nửa đêm , vì một chốc nữa đây , bên kia bờ Thái Bình Dương , Đại Sứ Nomura sẽ đến gặp Ngoại Trưởng Hull để trao bản giác thư , một “tối hậu thư” không hơn không kém .


  Togo chân bước nhưng đầu óc vẫn để ở tận một nơi xa xôi nào đó : Chỉ còn vài phút nữa thôi một ngày trọng đại nhất sẽ đến và trang sử của thế giới sẽ mở ra một trang mới , một trang sử đầy tang thương chết chóc .

  

  

  Máu nhuộm Trân Châu Cảng


                   Chiếc chiến đấu cơ Zero đầu tiên bay vào không phận phía Bắc Oahu , tại mũi Kahuku vào lúc 7 giờ 48 . Trung Úy Yoshio Shiga , chỉ huy trưởng phi đoàn gồm 43 chiếc chiến đấu cơ Zero bay phía trên cùng để bảo vệ cho 3 đội hình của 3 phi đoàn đang bay phía dưới trong trường hợp bị máy bay Hoa Kỳ tấn công . Ngay phía dưới của đoàn chiến đấu cơ Zero là 49 oanh tạc cơ do Fuchida chỉ huy . Bên cánh phải là một đoàn 40 phi cơ phóng thủy lôi do trung tá Murata chỉ huy . Phía cánh trái là một đoàn 51 khu trục cơ cất cánh từ mẫu hạm Shikoku dưới quyền chỉ huy của trung tá Takahashi. Mỗi phi cơ của toán Takahashi mang theo một trái bom nặng 1,760 cân Anh .


  Trung tá Fuchida vừa chỉ huy phi đội oanh tạc cơ mà cũng là vị chỉ huy cho cả phi đoàn xuất kích đợt đầu tiên này . Ông từ từ bay lên dẫn đầu đội hình phi đoàn tiến vào mục tiêu . Trong đầu Fuchida đang toan tính cho một quyết định cấp tốc , ông đã vạch ra hai kế hoạch tấn công và đã cùng các phi đoàn trưởng thống nhất kể cả hiệu lệnh . Bây giờ chỉ cần quan sát mọi diễn biến bên dưới rồi tùy cơ mà ban phát hiệu lệnh                               .  


  Một giờ 40 phút sau khi cất cánh khỏi các mẫu hạm, các phi công của Fuchida trông thấy, qua khe những đám mây, một đường dài uốn khúc bên dưới. Ðó là bờ biển đảo Oahu với những làn sóng chồm lên bãi cát. Lúc đó là 7:40 sáng. Vài phút sau nữa Trân châu cảng và thành phố Honolulu hiện ra trước mắt họ, giống như những khối hình mầu xám nổi bật trong làn sương hồng buổi sáng. Nhìn xuyên qua lớp sương mờ mỏng, các phi công Nhật có thể trông thấy các chiến hạm của hạm đội Thái bình dương. Các chiến hạm này đậu cạnh nhau từng đôi giống như các binh sĩ đang diễn hành. Khi các phi công vươn cổ ra để đếm các chiến hạm Mỹ, họ không trông thấy một làn khói nào bốc lên từ quân cảng hoặc từ một chiến hạm nào. Tất cả quân cảng và chiến hạm dường như đang trong một giấc ngủ lười biếng của một buổi sáng chủ nhật, sau một đêm thứ bảy vui chơi .


  Fuchida và các phi công Nhật rất kinh ngạc trước sự chểnh mảng của quân trú phòng Mỹ. Sau này Fuchida mô tả lại quang cảnh buổi sáng hôm ấy như sau "Bên dưới tôi, tất cả hạm đội Thái bình dương của Hoa Kỳ nằm trong một đội hình lý tưởng để tấn công mà tôi không hề dám mơ ước trong những giấc mơ lạc quan nhất của tôi. Tôi đã được chứng kiến hạm đội Ðức tập trung tại hải cảng Kiel. Tôi đã được thấy hạm đội của Pháp tại quân cảng Brest. Tôi cũng thường thấy các chiến hạm của chúng tôi tập họp lại để Nhật Hoàng duyệt binh, nhưng tôi chưa bao giờ được trông thấy các chiến hạm, dù trong thời bình, bỏ neo gần nhau đến như thế, chỉ cách nhau khoảng vài trăm thước. Một chiến hạm trong thời chiến phải luôn luôn đề cao cảnh giác một cuộc tấn công bất ngờ có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Nhưng hình ảnh bên dưới kia thực là khó hiểu. Phải chăng người Mỹ chưa bao giờ nghe thấy trận tấn công bất ngờ tại Lữ Thuận?"


  Phía bên dưới quân cảng , những tổ phòng không đều bỏ trống . Ba phần tư súng trên các chiến hạm xung quanh cảng đều không có người canh gác . Duy nhất chỉ còn bốn khẩu đội phòng không 31 AA của Lục quân thì còn giữ nguyên vị trí và sẳn sàng chiến đấu , nhưng khổ nổi đạn dược đã mang cả vào kho cất đi sau mỗi lần tập dượt từ khi có lệnh bảo trì là “Đạn dược mà cứ để nằm ì phơi mưa gió như thế thì nếu không hư cũng … bị bụi bặm bẩn thỉu khó coi lắm !”


  Royal Vitousek , một luật sư đang hành nghề ở Hạ Uy Di . Hôm ấy ngày nghỉ nên cùng đứa con trai là Martin láy chiếc máy bay riêng bay quanh đảo để cùng thưởng thức bình minh , nhìn cảnh mặt trời đỏ hồng soi bóng biển xanh pha màu mây trời bàng bạc . Trong lúc dạo được một vòng quanh đảo chợt hai cha con nhìn thấy 2 chiếc phi cơ chiến đấu mang cờ dấu hiệu mặt trời . Họ không ai bảo ai cũng biết đó là máy bay của không quân Nhật , Vitousek lanh trí hạ thấp máy bay và lộn trở về phi đạo của một sân bay tư nhân gần nhà để kịp thời điện thoại báo cáo lại .  


  Trung Tá Fuchida dẫn đầu phi đoàn oanh kích tiến vào không phận Oahu , khi đến mũi Kahuku , ông lượn một vòng phía tây ngạn Oahu để quan sát kỷ rồi tiến thẳng đến vùng trời Trân Châu Cảng . Đúng 7:49 , Fuchida dùng radio liên lạc về soái hạm báo cáo đợt tấn công thứ nhất bắt đầu . Từ trên nhìn xuống , toàn bộ quân cảng vẫn im lìm không có một dấu hiệu gì cho thấy quân đội Hoa Kỳ đang phòng thủ chiến đấu . Fuchida mừng rỡ , liếc nhìn đồng hồ ông thấy đã 7 : 53 , vội liên lạc ngay về Namugo “Tora – Tora – Tora” có nghĩa là “mãnh hổ” , ý nói sẽ dùng chiến thuật tấn công theo kế hoạch thứ nhất . Theo chiến thuật thứ nhất này thì khi nhận thấy quân đội Hoa Kỳ không phòng bị gì cả , phi đoàn của ông sẽ chia nhau tung hoành trên bầu trời , trong nửa tiếng đồng hồ đầu tiên cố gắng gây thiệt hại cho địch quân càng nhiều càng tốt .


  Fuchida bắn ra một pháo hiệu ra lệnh cho phi đoàn theo kế hoạch thứ nhất . Người phi đội trưởng gần đó không nghiêng cánh phi cơ để tỏ ra nhận được hiệu lệnh nên Fuchida vội bắn thêm một pháo hiệu nữa . Shiga đang bay phía sau ông một khoảng khá xa , nhìn thấy hai pháo hiệu bắn ra thì nghĩ lầm rằng sẽ tấn công theo kế hoạch thứ nhì , ông vội chuyển hướng thẳng đến phi trường Hickam Field . Theo kế hoạch thứ nhì thì chỉ dự trù khi nào địch quân đã phát giác và phòng thủ , phi đoàn của Fuchida sẽ tấn công theo một đội hình vừa phá hoại vừa chiến đấu . Vì thế nên Shiga khi nhận được pháo hiệu vội dẫn phi đội mình bay thẳng về phi trường Hickam để nghinh địch .


  Trung Tá Kakuichi Takahashi , phi đội trưởng phi cơ đâm bổ cũng nhận lầm hiệu lệnh nên ra hiệu đổi hướng . Trong khi ấy thì phi đội phi cơ thủy lôi vẫn tiến về hướng mục tiêu đã định . Thiếu Tá chỉ huy là Shigeharu Murata là người duy nhất không nhầm lẫn hiệu lệnh , ông dùng tầng số radio ra lệnh cho toàn phi đội của mình hành động y theo kế hoạch . Đội hình phi đội thủy lôi nhanh chóng chuyển hướng nhắm thẳng mục tiêu chính của mình là quân cảng , nơi có những chiến hạm đang bỏ neo san sát đang chờ những trái thủy lôi của họ đánh xuống .


  Lúc này các chiến đấu cơ của Itaya bốc mình bay lên thật nhanh và thật cao để có thể bao quát toàn thể chiến trường, và sẳn sàng phóng xuống đánh chặn bất cứ một phi cơ Mỹ nào bay lên. Toán phi cơ thả bom của Fuchida vẫn giữ cùng một cao độ bên dưới đám mây để quan sát mục tiêu một cách rõ ràng hơn.


  Trung Úy Mori và Shiga vì nhận lầm hiệu lệnh nên chia nhau dẫn phi đội chiến đấu từ trên cao độ 15 .000 bộ lao thẳng xuống như những con diều vồ mồi , len lách xuyên qua dốc núi tiến về hướng phi trường để nghinh địch . Phi trường Wheeler Field đây rồi , nhưng tất cả căn cứ không quân đều im lặng, không một phi cơ Mỹ nào bay lên nghênh chiến, và cũng không có một khẩu súng phòng không nào lên tiếng . Doanh trại , nhà chứa máy bay và phi đạo thẳng tấp , có khoảng 200 phi cơ đang đậu thành hàng ngũ chỉnh tề , tất cả đã hiện rõ trước mắt . Mori sau một giây sững sờ rồi đảo một vòng , ông nghĩ không nên chần chờ thêm nữa nên hạ thấp phi cơ , khẩu súng máy khạc đạn quét thẳng vào những chiếc phi cơ của Hoa Kỳ đang nằm sắp hàng dưới phi đạo . Tiếng súng dàn chào đầu tiên của Trung Úy Mori là tiếng súng mở màn cho cuộc không tập Trân Châu Cảng . 


  Shiga bay theo hình chữ chi tiến về hướng quân cảng . Ông đưa mắt quan sát phía dưới , cảnh trí gợi cho Shiga liên tưởng đến một vườn bách thảo của Nhật Bản , hạm đội Hoa Kỳ sơn màu trắng xanh nhàn nhạt phản chiếu với màu xanh biên biếc của nước biển , một hình ảnh trông có vẻ nên thơ thanh bình làm sao . Một giây sau ông đã lướt qua khỏi quân cảng để tiến tới mục tiêu chính là phi trường Hickam Field .


  Ngay lúc ấy phi đội khu  trục cơ đã bắt đầu trút bom xuống Ford Island . Cứ mỗi cú trút xuống và phóng vọt lên là phía sau nó một cột khói khổng lồ ngùn ngụt bốc lên kèm theo tiếng nổ long trời . Shiga quay sang nhìn những cột khói từ từ lan rộng gần khắp cả quân cảng nhưng vẫn chưa thấy phi đội phóng thủy lôi xuất hiện . Ông cảm thấy nóng mặt tự hỏi “Không biết cái đám chết tiệt phóng thủy lôi nó chết đâu mất mà giờ này vẫn chưa xuất hiện” . Vừa lúc đó từ hướng Tây , ông thấy một đội phi cơ chầm chậm tiến tới . Shiga lại văng tục rồi nghĩ “Làm cái gì mà bay như rùa bò thế kia chứ” . Đội phóng thủy lôi tiến đến chỗ các chiến hạm lớn đang bỏ neo tại phía Đông Nam Ford Island  . Đó là một dãy bảy chiến hạm đang thả neo san sát bên nhau , năm chiếc bên trong và 2 chiếc bên ngoài cảng . Thật là một mục tiêu lý trưởng cho “bầy chuồn chuồn đến thả trứng rồi bay đi” . Sau một phút im lặng chờ đợi , một tiếng nổ long trời lở đất , chiến hạm Oklahoma lắc mạnh lên từng hồi . Nhưng chỉ một giây sau đó phải hứng thêm hai trái thủy lôi nữa khiến cho nó run mạnh và nghiêng hẳn về một bên .


  Một phi đội phóng thủy lôi khác dưới sự chỉ huy của Trung Úy Matsumura , họ đến từ mẫu hạm Hiryu . Trân Châu Cảng hiện ra trong tầm mắt của họ là những cột khói đen bốc cao ngùn ngụt . “Họ đã thành công rồi ! Bây giờ phải tìm cho ra những mẫu hạm !”  Matsumura dùng ống liên hợp ra lệnh cho phi đội của mình . Vừa ra lệnh xong Matsumura hạ thấp xuống 150 bộ bay là đà trên cánh đồng mía . Nhìn thấy phi đội phóng thủy lôi đang chao liệng trên vùng trời Ford Island giữa những cụm khói đen mù mịt , bất giác Trung Úy Matsumura văng tục ỏm tỏi và càu nhàu “Chúng mày ngu bỏ mẹ cứ lo đánh bậy đánh bạ khói che khuất mất mục tiêu chính rồi còn gì” . Sáu bảy chiếc phi cơ đang bu quanh lấy một chiến hạm to tướng , từ xa trông nó như một mẫu hạm nằm bên bờ Tây Bắc Ford Island , Matsumura thốt lên trong tức tối “Đồ ngu như bò !” . Trước khi cất cánh , Matsumura đã cảnh cáo cho toàn phi đội biết là đừng uổng phí thời gian và bom đạn đánh đắm chiến hạm này làm gì , vì nó chỉ là một mẫu hạm già nua lỗi thời mang tên Utah , một cái bia hứng bom đạn chỉ dành cho phi công tập dượt mà thôi .


  Matsumara càu nhàu xong lại bay vòng trở lại phi trường Hickam , chỉ e ở độ cao 500 bộ như thế này phi cơ của mình có thể hút phải những chiến hạm trên cảng cho nên anh ta lòn lách xuyên ngang phi đội phóng thủy lôi đến từ mẫu hạm Kaga  và Akagi . Một vài phi cơ bạn bị trúng đạn địch bốc cháy nhưng những phi công gan lì ấy vẫn ráo riết tìm cách đâm bổ vào mục tiêu của địch . Hình ảnh oai hùng ấy càng nung nấu niềm hăng say trong lòng anh Trung Úy phi công trẻ , “Mình cũng phải hành động như thế nếu không may lọt vào hoàn cảnh ấy mà thôi” . Anh tự nhủ trong khi đang bay là đà ngang một bồn chứa nước , qua khỏi bồn nước anh hạ thấp phi cơ xuống cao độ 100 bộ và hướng thẳng về phía một chiếc thiết giáp hạm đang neo bên ngoài cảng – Đó là West Virginia . Thông thường thì phi công tự tay bấm nút thả thủy lôi , nhưng hôm nay , để không phạm một lỗi lầm nào thì chuyên viên thả bom sẽ thay phi công làm công việc ấy . Matsumura nói qua ống liên hợp “Chuẩn bị” . Xong anh ta ra lệnh “Bắn” . Trái thủy lôi buông mình phóng xuống trong khi Matsumura kéo cần lái điều khiển phi cơ bay bốc lên . Anh hỏi lớn “Thủy lôi phóng thẳng vào mục tiêu chứ ?” . Anh hỏi câu này để chắc chắn rằng trái thủy lôi vừa phóng ra không đâm sâu và dính chặc dưới đáy biển như anh hằng lo nghĩ .


  Matsumura  cho phi cơ bốc lên cao rồi quẹo về phía phải để có thể ngoái nhìn xuống kiểm chứng lại kết quả . Phía dưới , trên mặt nước biển loang loáng màu dầu , thủy thủ Hoa Kỳ từng nhóm , từng nhóm bám víu vào nhau bì bõm cố bơi vào bờ . Anh cho phi cơ nghiêng đi một tí thì nhìn thấy một cột nước trắng xóa bắn tung lên từ chiến hạm Virginia .


   Đây chính là kết quả khả quan đến từ những tháng dài gắng công miệt mài tập dượt .


  Trung Úy Mori cứ đảo vòng quanh bầu trời Oahu để tìm một mục tiêu xứng đáng cho mình . Anh cho phi cơ bay là đà sát mặt đất nhưng chỉ phát giác ra có mỗi một tuần dương hạm đang thẻ neo phía bên kia bờ Ford Island . Chán nản quá nên Mori mới nghiêng đầu quay trở lại hướng về phía chiếc thiết giáp hạm California , chiếc cuối cùng của dảy thiết giáp hạm đang thả neo trong quân cảng . Chợt ngay lúc ấy một con đê ngăn sóng biển hiện ra lù lù trước mắt ngăn cách anh với mục tiêu . Phi cơ của Mori chợt cất mũi lên rồi quanh vòng phía trên chiến hạm Utah . Từ trên nhìn xuống , một cảnh hoang tàn đổ nát hết sức thương tâm , Utal , một chiến hạm oai vũ hiên ngang từng tung hoành ngang dọc mà bây giờ hình thù lại trở nên dị dạng , trông giống như ai đả bẻ nó gập lại làm đôi . Xung quanh nó , thủy thủ còn sống sót níu kéo nhau kêu la ơi ới . Tiếng rên xiết kêu la hòa theo tiếng bom rền đạn réo , khói lửa mù trời , thật là một cảnh náo loạn chưa từng thấy nơi vùng hải đảo từng nổi danh là thiên đàng nơi hạ giới này .


  Mori hạ phi cơ xuống thấp 15 bộ và tiến thẳng đến chiếc thiết giáp hạm California từ một góc độ khác . Trái thủy lôi vừa được phóng ra khỏi bệ thì Mori tức thì điều khiển phi cơ bốc lên cao độ an toàn trong khi người xạ thủ cố gắng quay lại chụp hình lúc trái thủy lôi phát nổ . Mori cố cho phi cơ bay vòng theo phía trái nhưng khốn nỗi một cột khói đen khổng lồ bốc lên từ Ford Island khiến cho anh không nhìn thấy gì cả , nếu lao thẳng tới thì gặp phải phi đội thủy lôi từ 2 mẫu hạm Akagi và Kaga . Không còn chọn lựa nào khác , với nhiều năm kinh nghiệm của một sĩ quan phi công , Mori tỏ ra bình tỉnh điều khiển chiếc phi cơ phóng nhanh thẳng về phía trước ngược chiều với phi đội thủy lôi đang vùn vụt lao đến . Anh khéo léo lòn lách né tránh trong đường tơ kẻ tóc mới thoát ra được khoảng an toàn nhưng phi cơ của anh cũng bị chòng chành như mất sức điều khiển trong vùng không khí bị hổn loạn ấy . Lúc đó đạn phòng không từ dưới đất bắn lên rất rát , phi cơ của anh là mục tiêu hứng từng loạt đạn . Viên xạ thủ bị một viên xuyên qua cánh tay và ghế ngồi của anh cũng bị rách nát , tuy nhiên họ vẫn còn may mắn vì không có một viên đạn nào bay trúng bình xăng .


  Đoàn oanh tạc cơ xuất hiện khi toàn bộ quân cảng ngập tràn trong khói lửa . Họ quần thảo phía trên những chiến hạm khói lửa ngùn ngụt . Trong đợt oanh tạc này chiếc thiết giáp hạm Oklahoma lảnh trọn trái bom nặng 1.760 cân Anh , bom rơi trúng ngay hầm đạn nên phát nổ dữ dội . Phi đội trưởng Heijiro Abe , người vừa đánh trúng mục tiêu chỉ kịp nhìn thấy một tia lửa phọt lên từ sàn tàu rồi muôn ngàn tiếng nổ chát chúa liên tiếp theo sau .


                                             ……………………………………..


   Luật sư Vitousek , người vừa phát giác ra phi cơ Nhật trên không phận Hạ Uy Di đã vội trở về . Chỉ mười lăm phút sau đó ông đã điện thoại vào văn phòng của bộ chỉ huy không lực Hoa Kỳ để báo cáo sự tình . Các sĩ quan trực đều tỏ ra không sốt sắng trước lời báo cáo khá mơ hồ của một vị luật sư chẳng có tí kinh nghiệm gì về chiến trận này . Họ đều cho ông là hoa mắt nên nhìn lầm , vì thế nên không đếm xỉa đến bản tin ấy nữa .


  Cho đến khi tiếng nổ kinh hồn của trái bom đầu tiên rơi xuống phi trường Wheeler Field đánh thức Trung Úy Robert Overstreet , thuộc Tổ 696 Ban quân nhu Không quân , lúc này ông còn đang nằm ngủ trong một doanh trại dành cho sĩ quan độc thân . Nghe tiếng nổ long trời , ông ngồi dậy định thần một chốc rồi tự nhủ có lẽ là do một cơn địa chấn ở gần đâu đây cũng nên . Cho đến khi nghe bên ngoài có tiếng la thất thanh “Phi cơ của không quân Nhật đánh bom !” Rồi có ai đó lại nói “Không , không phải đâu . Đấy chính là Hải quân họ đang tập trận đó thôi !” . Vừa lúc đó thì cửa phòng cửa Overstreet chợt mở toang và một người bạn thò đầu vào , khuôn mặt của hắn trắng bệt vì sợ hãi miệng thì lấp bấp “Tôi nghĩ là mình bị tụi Nhật nó tấn công !” . Overstreet tung chăn bật dậy chạy ra cửa sổ để nhìn , trên bầu trời trong xanh của buổi bình minh xuất hiện vô số phi cơ sơn màu ô-liu . Một phi cơ bay thật thấp đến độ anh có thể nhìn thấy cả phi công và gả xạ thủ . Nhìn vào thân phi cơ có vẽ hình mặt trời với những sợi lửa màu đỏ thì Overstreet không còn giữ được nét bình tỉnh nữa , anh mặc vội quần áo và lao nhanh ra ngoài doanh trại nhập vào nhóm phi công đang chạy ra phi đạo lên phi cơ nghinh địch .


  Trung Úy Harry Brown dẫn đầu nhóm phi công ấy , một tiếng nổ chát chúa , anh khựng lại và đưa mắt căm hờn nhìn những chiếc phi cơ đang đậu gần đó bốc cháy khỏi tỏa ra mù mịt . Brown lại hô lớn như ra lệnh “Chúng ta hãy đi qua bên Haleiwa” . Haleiwa là một phi trường phụ , một bãi cỏ hướng về bờ biển phía Bắc , chỉ có vài chiếc chiến đấu cơ P-40 và P-36 . Dứt lời Brown cùng đồng bọn nhảy lên chiếc xe Ford mui trần rồ ga vọt thẳng . Trung Úy George Welch và Kenneth Taylor trên một chiếc xe khác cũng bám sát theo sau .


  Bom vẫn nổ rền trời , Overstreet cố chen lấn len qua đám hỗn độn để chạy tới khu vực đại bản doanh phi đoàn . Thiếu Tướng Howard C.Davidson , sĩ quan chỉ huy pháo đài chiến đấu và Đại Tá William Flood , chỉ huy trưởng căn cứ vẫn còn đứng ngay bên cửa trong bộ đồ ngủ . Họ ngước nhìn lên bầu trời với vẻ mặt rất đổi kinh hoàng . 


  Đại Tá Flood miệng càu nhàu “Hải quân họ chết tiệt đâu rồi cà ?” “Mấy đứa con của mình cũng không còn đứa nào hết sao ?” . Overstreet vội chạy tới , khi còn vài bước thì anh gào to lên “Thiếu Tướng hãy ra khỏi nơi này ngay” . Lúc này Overstreet đã tới bên Thiếu Tướng , anh chỉ lên trời và nói “Máy bay của họ có trang bị súng máy phía sau , đừng đứng ở đây họ sẽ bắn vào đấy Thiếu Tướng” . Ngay trong lúc ấy Tướng Davidson chợt trừng mắt lộ vẻ kinh hoàng khi ông nhìn ra ngoài sân , thấy hai cô con gái song sinh mới 10 tuổi  của mình đang tung tăng ngoài sân cỏ tranh nhau lượm những vỏ đạn rơi rớt vung vãi từ trên phi cơ Nhật , họ vô tư cứ lo tranh giành với nhau từng võ đạn giống như đi tìm trứng trong dịp lễ Phục Sinh . Davidson hò hét bảo vợ ra mang hai đứa con cưng vô nhà rồi mới chạy đi tìm cách nghinh địch . Không còn một chiếc phi cơ nào có thể cất cánh được , chúng nằm la liệt những đống sắt vụn không hơn không kém . Hoặc giả nếu có cất cánh lên được thì cũng chỉ để chạy thôi vì kho đạn đã chìm trọn trong biển lửa , tiếng đạn bị lửa đốt nổ vang một góc trời 


  Mười lăm dặm về hướng Nam , phi trường Hickam Field lúc ấy có hai chuyên viên bảo trì đang đi về hướng những chiếc phi cơ đang đậu . Jesse Gaines và Ted Conway , sáng hôm nay họ cố thức dậy thật sớm để ra sân bay vì muốn tận mắt chứng kiến phi đội pháo đài bay B-17 , vì họ chưa bao giờ được trông thấy loại phi cơ tối tân ấy bao giờ . Đúng 7:55 sáng một đội hình phi cơ xếp thành hình chữ V xuất hiện ở bầu trời phía Tây , hai người ngẩn người ra nhìn và bất thình lình Gaines trông thấy có một vật gì rơi xuống từ thân phi cơ . Còn đang chăm chú theo dõi thì Conway kéo anh ta vật xuống và hét lên “Mày điên rồi sao mà đứng đó ? Mau chạy kẻo bom nổ tan xác bây giờ !”     


  Họ đồng kéo nhau chạy về một bản doanh 3 tầng của Không quân gần đó . Khi quả bom đầu tiên phát nổ thì Đại Tá James Mollison , tham mưu trưởng Không quân tại căn cứ Hạ Uy Di đang đứng trong phòng tắm cạo râu . Ông chạy ào ra văn phòng chụp điện thoại và gọi ngay cho Đại Tá Walter C.Phillips cùng Tướng Short để báo cáo Nhật đang tấn công . Phillips giọng mĩa mai đáp “Jimmy , bộ ông loạn trí rồi hay sao mà ăn nói hàm hồ thế hử ?” Mollison không nói gì cả chỉ đưa ống nói ra phía ngoài để cho Phillips nghe rõ âm thanh vang dội của những tiếng bom long trời lở đất . Phillips bàng hoàng chết lặng , một lúc sau ông mới nói được “Tôi sẽ gửi sĩ quan liên lạc đến đó ngay !” Cùng lúc ấy một quả bom phát nổ gần đó , trần nhà nơi Mollison đang đứng bỗng run lên bần bật rồi tất cả đổ ụp xuống , chỉ trong nháy mắt tất cả chỉ còn lại một đống gạch vụn .


  Cách đấy hai dặm ngược về hướng Bắc , phi trường Ford Island . Khi trái bom đầu tiên rơi xuống , tiếng nổ long trời của nó không hề làm bận tâm cho những nhân viên đang có mặt ở đây , họ thờ ơ coi đó như một tai nạn như những tai nạn bom đạn hằng xảy ra . Cho đến khi nhà cửa , doanh trại rung chuyển và những loạt bom vang dội chấn động khắp nơi thì họ mới ngộ ra và biết đây sự thật không phải là tai nạn . Chỉ vài phút sau toàn bộ căn cứ Hải quân ở Ford Island và Kaneohe , căn cứ Lục quân ở Wheeler , Bellows và Hickam cũng như căn cứ Thủy quân lục chiến ở Ewa đều bị tê liệt . Ngoài 30 chiến đấu cơ của phi đội trực thuộc Lục quân có thể cất cánh nghênh địch , còn lại không có một phi cơ nào của Hải quân cả .

   Ba phút sau khi quả bom đầu tiên phát nổ , các nơi điện thoại báo cáo thẳng về tổng hành dinh của Đô Đốc Kimmel . Phó Đô Đốc Patrick Bellinger lên tiếng kêu gọi từ phi trường Ford Island


  “Trân Châu Cảng bị không tập bất ngờ”


  Đúng 8:00 giờ , Đô Đốc Kimmel điện báo về Hoa Thịnh Đốn , Đô Đốc Hart cũng như toàn thể lực lượng Hải quân khắp nơi . Bản tin Trân Châu Cảng bị tập kích bất ngờ được đánh đi trong khi khói lửa trên bầu trời quân cảng càng lúc càng bốc cao ngùn ngụt .


  Ngoài kia bình minh đang lên , ánh dương quang trải rộng như một tấm thảm màu hồng in trên mặt biển lung linh . Trước một quang cảnh thiên nhiên diễm tuyệt như thế nhưng cư dân trên hải đảo đã không còn tâm trí nào để thưởng thức , họ cuống cuồng vì tiếng gào thét của phi cơ và thanh âm khủng khiếp của từng loạt bom như những cơn địa chấn liên miên  bất tận . Những con chim hải âu vốn sống cả đời trong cảnh thanh bình êm ả , bất giác sáng nay cũng phải giật mình đập cánh xa bay cố trốn chạy những con chim sắt dị kỳ từ đâu bay tới mang theo những tiếng nổ kinh thiên động địa và khói lửa ngất trời .


  Cách chỗ neo những chiến hạm không xa lắm , trên một chiếc tàu chở dầu mang tên Ramapo . Khi chợt trông thấy vô số phi cơ xuất hiện trên bầu trời , theo sau đó là tiếng bom nổ cùng khắp , Yeoman và Graff là hai thủy thủ trên tàu không biết nên xử trí thế nào nên cứ đứng trơ ra phổng đá mà nhìn . Bỗng họ chợt té ngồi xuống sàn tàu bởi sức gió của một chiếc phi cơ vừa nhào xuống bay ngang quá gần chỗ họ đứng và đâm sầm vào chiếc Thiết giáp hạm California , chiếc đầu tiên trong 7 chiếc thiết giáp hạm đang thả neo cùng một dãy gần đó . Rồi họ chợt trông thấy hai chiếc phi cơ phóng thủy lôi xuất hiện ngay trên đầu họ đang lao thẳng về phía Ford Island , nơi có hai chiếc thiết giáp hạm Marryland và Oklahoma đang thả neo . Thủy lôi không tài nào đánh trúng được Maryland vì nó neo ở phía trong , nhưng phía ngoài nó là chiếc Oklahoma thì chỉ trong một phút đã hứng chịu tất cả 4 trái thủy lôi . Chỉ sau một loạt tiếng nổ , chiếc thiết giáp hạm khổng lồ nghiêng hẳn về một bên . Chỉ huy trưởng Kenworthy , một sĩ quan kỳ cựu trên tàu ra lệnh tất cả phải tức tốc thoát hiểm bằng cách nhảy tòm xuống biển . Chỉ trong chốc lát nó nghiêng đổ về một bên đưa cả chân vịt lên khỏi mặt nước . Phía dưới ấy có khoảng hơn 400 thủy thủ còn kẹt lại và bị chôn sống dưới tay thủy thần . Trong dãy 7 chiến hạm đang neo bên trong quân cảng , cũng như Maryland , Tennessee và West Virginia cũng neo ở ngay giữa hàng nên thủy lôi không thể nào đánh vào được . Trên tháp chỉ huy của chiếc thiết giáp hạm West Virginia , xác của vị thuyền trưởng Mervyn Bennion bị bẻ quặt làm đôi , cặp mắt trợn trừng tức tưởi . Có lẽ ông ra đi không đành lòng vì chưa kịp nhận ra một mảnh bom oan nghiệt từ đâu bay đến xé toạt cả phần bụng dưới kết liễu đời mình .


  Cùng thả neo song song với chiếc West Virginia là hai chiếc tuần dương hạm Arizona và Vestal (Vestal đang trong tình trạng tu bổ) . Khi phi cơ phóng thủy lôi vừa đánh trật chiếc Arizona thì chỉ ba phút sau đội oanh tạc cơ trờ tới , có tất cả 5 quả bom hạng nặng đánh trúng vào Arizona . Một trái rơi xuyên qua boong tàu chui vào tận hầm chứa dầu rồi mới phát nổ . Sau một tiếng nổ dữ dội , lửa khói tràn lan . Khoảng hai ngàn ký thuốc nổ đang chứa trong một hầm cách ly gần đó bị lửa cháy tới nên phát hỏa dữ dội , từ xa trông vào Arizona thật không khác gì một hỏa diệm sơn đang hoạt động . Chỉ trong khoảnh khắc sau đó , chiếc tuần dương hạm khổng lồ bỗng dưng như nãy ngược lên một cái rồi gãy ra làm đôi . 36 ngàn tấn nặng nề như một quả núi đỏ lửa chìm sâu vào lòng quân cảng , để lại một vùng mênh mông đầy bọt nước lẫn khói đen sôi trào sùn sục . Một cảnh tượng khủng khiếp chỉ xảy ra không đầy 10 phút , có ai dám nghĩ dù chỉ một trong số 1,500 thủy thủ hiện có mặt trên chiến hạm xấu số ấy có thể thoát nạn được . Bên cạnh Arizona , chiếc Nevada cũng không được may mắn gì hơn khi bị trúng phải một trái thủy lôi nằm chúi mũi và một quả bom hạng nặng đánh trúng tháp chỉ huy .


  Quang cảnh hỗn độn chưa từng thấy , dọc theo chỗ chiến hạm bỏ neo , giữa tiếng nổ rềnh trời và lửa khói mù mịt , người ta kêu nhau ơi ới . Thủy thủ trên tàu tranh nhau thoát nạn bằng cách nhảy xuống nước , cố bơi chỉ một khoảng cách ngắn là vào được Ford Island . Nhưng với cách thoát thân duy nhất ấy cũng khó mà vượt qua được bởi lẽ lềnh bềnh trên mặt nước là lớp dầu loang , có nhiều nơi lớp dầu ấy dày đến cả gang tay . Đó mới là mối họa cho những thủy thủ còn sống sót sau trận bom vừa rồi , lửa gặp dầu bắt cháy khủng khiếp và lan nhanh như gió đốt chết đa số những người đang cố bơi vào bờ .


   Ngay lúc ấy phía bên kia bờ Ford Island , phi đội phóng thủy lôi vẫn còn bu quanh tấn công chiếc hạm Utah , một mẫu hạm lổi thời chỉ để làm mục tiêu cho những cuộc tập dượt . Vốn đã quá cũ kỷ và không hề được tu bổ nên sau khi bị trúng vài trái thủy lôi Utah đã nghiêng hẳn về một bên rồi lật úp . Trên Ford Island , người ta còn nghe rõ những tiếng gõ yếu ớt vào thành tàu kêu cứu của những thủy thủ bị kẹt lại trong ấy . Lúc đó là 8:12 sáng .


  Duy nhất chỉ có mỗi một chiếc hạm trong tất cả chiến hạm đang bỏ neo tại quân cảng chạy thoát ra được , đó là chiếc khu trục hạm mang tên Helm . Nó đang cố gắng xả hết tốc lực 27 hải lý một giờ hướng ra cửa quân cảng mong thoát ra vùng an toàn . Chính ở cửa miệng quân cảng vốn có gắn một hệ thống lưới chống thủy lôi , tấm lưới này đã mở sẳn từ sáng sớm cho hạm Condor rời cảng nhưng không biết vì lý do nào đó mà họ không đóng lại (sau này cũng chẳng có ai cho biết rõ nguyên nhân) . Cũng nhờ thế mà chiếc tiểu tiềm thủy đỉnh của Nhật mới có thể lẻn vào bên trong quân cảng . Đó là chiếc tiểu tiềm thủy đỉnh bị Hải quân Hoa Kỳ phát giác và bắn vào tiềm vọng kính lúc đêm tối . Sau khi bị tấn công , nó lặn xuống nằm im nhưng một hồi lâu không thấy động tỉnh gì , nghĩ rằng âm mưu của mình chưa bại lộ nên khi tấm lưới trước cửa cảng vừa mở ra thì nó đã lẻn vào nằm im , chờ thời cơ nhào lên tấn công . Khi nhìn đồng hồ , thấy đã quá thời điểm tấn công của phi cơ nên Sakamaki , chỉ huy trưởng tiểu tiềm thủy đỉnh quyết định điều khiển cho nó trồi lên khỏi mặt nước . Trước mắt hắn là một biển lửa đỏ rực cùng những cột khói đen cao tận trời . Hắn mừng rở nói với viên sĩ quan phụ tá “Quân ta đã tấn công . Nhìn kìa , thật tuyệt vời làm sao , hạm đội địch đua nhau phát hỏa ! Tụi mình cũng phải cố gắng làm sao cho xứng đáng như bọn họ chứ . Phải không ?” Lúc 8:15 , Sakamaki mừng rở khi trông thấy khu trục hạm Helm chạy ra hướng cửa cảng . Suy nghĩ một chốc rồi hắn quyết định không đếm xỉa gì tới Helm nữa , hai trái thủy lôi của mình để dành vào những mục tiêu quan trọng hơn , xứng đáng hơn . Nghĩ vậy nên Sakamaki cho tiềm thủy đỉnh lặn sâu xuống nước nằm chờ , nhưng khi vừa lặn xuống chưa được bao lâu thì đáy của tiềm thủy đỉnh đụng phải lớp đá ngầm . Hắn điều khiển cho nó lui lại và thử lần nữa . Lần này chiếc tiểu tiềm thủy đỉnh bị va vào lớp san hô quá dày nên phần cuối của nó bị đẩy ngược lên khiến cho tiềm vọng kính nhô cao lên khỏi mặt nước . Bỗng một tiếng nổ dữ dội vang lên ngay trên đỉnh đầu khiến cho toàn thân tiềm thủy đỉnh bị chấn động mạnh , đầu của Sakamaki đụng phải một vật cứng khiến cho hắn bất tỉnh ngay tại chỗ . Mấy phút sau Sakamaki mới bừng mắt tỉnh dậy thì thấy chung quanh buồng lái tí hon của mình đã chìm trong một màn khói trắng cay sè , khiến cho đôi mắt hắn trĩu xuống , miệng khô môi đắng và đầu óc choáng váng khó chịu vô cùng . Tuy vậy nhưng Sakamaki vẫn cố tập trung hết tinh thần vào sự điều khiển chiếc tiểu tiềm thủy đỉnh , chỉ mong cho nó thoát ra khỏi vùng san hô quái ác này .


  Trong khi ấy thì khu trục Hạm Helm tiếp tục dùng đủ hỏa lực bắn xối xả vào tiểu tiềm thủy đỉnh cho đến khi nó trượt ra khỏi vùng san hô và lặn mất .


  Bên trong quân cảng , một tiểu tiềm thủy đỉnh khác cũng vừa nhô lên khỏi mặt nước , ngay phía Tây Ford Island . Lúc này đồng hồ đã điểm 8:30 sáng , khi quân đội Hoa Kỳ đã hoàn hồn và chấn chỉnh lực lượng để phản công . Khi chiếc tiểu tiềm thủy đỉnh vừa nhô lên thì bị Hải quân Hoa kỳ phát giác ngay và lập tức bao nhiêu hỏa lực gần đó đều đổ dồn về nó . Hai trái thủy lôi từ chiếc tiểu tiềm thủy đỉnh bắn vào hai mục tiêu khác nhau nhưng không gây thiệt hại nào đáng kể . Chiếc khu trục hạm Monaghan chạy lao tới tông thẳng vào tiểu tiềm thủy đỉnh , một thoáng sau không ai nhìn thấy tâm dạng của nó ở đâu cả . Có lẽ nó đã phóng ra hết hai trái thủy lôi , nhiệm vụ đã hoàn thành mặc dù chẳng đánh đấm được một chiến hạm nào nhưng kẻ thù đang lao tới tấn công nếu không lặn trốn ngay thì còn chần chờ gì nữa .


  Phi đội chiến đấu Zero của Shiga đang đảo vòng trên cao độ 8 ngàn bộ trên bầu trời Hickam chờ phi cơ địch xuất hiện thì nhào xuống tấn công . Nhưng đợi mãi mà chẳng thấy một phi cơ chiến đấu nào cất cánh nghinh địch cả . Ngước nhìn về phía Đông , Shiga trông thấy một chiếc máy bay Hoa Kỳ , thân màu vàng đang bay vào từ bờ biển . Shiga không để ý gì đến nó nữa , nhưng không bao lâu sau đó hắn phát giác ra 6 chiếc phi cơ khổng lồ 4 động cơ đang tiến tới hình như muốn đáp xuống phi trường Hickam .


  Đây là nhóm đầu tiên trong 12 chiếc pháo đài bay đến từ California . Nhìn thấy phi đoàn chiến đấu cơ Zero đang vần vũ trên cao độ của bầu trời Hickam , Thiếu tá phi đội trưởng phi đội pháo đài bay Truman Landon lại nghĩ Không Lực Hoa Kỳ đang cất cánh chào đón phi đội của mình nên chuyển hướng lại gần , đến một khoảng cách mà ông có thể nhìn thấy rõ lá cờ mặt trời và họng súng máy đen ngòm thì bật dậy phát lệnh cho cả phi đội “Chúng ta lầm rồi , họ là máy bay của không quân Nhật” . Phi đội của Landon vội nhanh chóng tản ra , một chiếc hướng về phía Bắc để đến Bellows , 3 chiếc còn lại đáp vội vàng xuống phi trường Hickam . Tất cả 4 chiếc trong phi đội đều hạ cánh an toàn nhưng 1 chiếc bị bắn gãy đôi bởi những cánh quân bạn đang chống trả dưới đất .


  Bấy giờ Shiga mới phát lệnh cho phi đội của mình bắt đầu bắn phá phi trường Hickam , họ lao xuống thi nhau nã đạn vào những chiếc phi cơ đang đậu thành hàng nơi phi đạo . Bắn phá một chập họ mới bay là đà ra hướng biển cốt để tránh đạn phòng không của địch và từ đó lại lao vào bắn phá tiếp . Shiga ngạc nhiên không ít khi phát giác ra cho đến lúc này , nghĩa là nửa tiếng đồng hồ sau khi cuộc tấn công bắt đầu , đã không có một khẩu súng phòng không nào từ dưới đất bắn lên cả và toàn thể phi đội của mình nãy giờ vẫn bình an làm mưa làm gió như chỗ không người . Sau khi bắn phá đến ba lượt , bom đạn đã cày nát phi trường Hickam , Shiga mới quyết định chuyển hướng sang phi trường Ford Island , nhưng bầu trời ở đây đang bị những cụm khói đen che khuất , Shiga vội hướng dẫn phi đội của mình sang phía doanh trại thủy quân lục chiến gần Barbers Point , phía Tây Nam . Bất cứ nơi nào phi đội Zero chiếu cố thì chỉ một khoãnh khắc sau sẽ trở thành bình địa . Họ chịu rời khỏi khi nào phía dưới chẳng còn mục tiêu nào để thanh toán nữa .


  Phi đội phóng thủy lôi bấy giờ đã không còn gầm rú trên bầu trời Trân Châu Cảng , các mục tiêu chính đã bị triệt hạ nên phải chia nhau bay về các ngã khác nhau để tìm mục tiêu mới , nếu thấy có gì hấp dẫn thì nhào xuống đánh tiếp . Trung Úy Mori sau khi đánh chìm chiếc thiết giáp hạm California , khi vừa lấy lại cao độ thì anh ta đã nằm trên bầu trời Honolulu . Anh biết đây là khu dân cư thuộc khu vực cấm oanh kích nên đánh vòng lại khu vực quân cảng . Vừa lúc ấy thì tiếng nói của gả xạ thủ vang lên trong ống liên hợp “Mori , một chiếc phi cơ lạ xuất hiện phía sau chúng ta” . Mori quay lại nhìn thì thấy một chiếc máy bay nhỏ bé với hai tầng cánh màu vàng thì anh ta ra lệnh cho viên xạ thủ “Cứ bắn dọa , đuổi cho nó bay đi nơi khác đi !”


  Về phần Trung Úy Matsumura , sau khi đánh trúng tuần dương hạm West Virginia , anh cho phi cơ vòng lại hướng Nam , vừa lúc trông thấy khu trục hạm Helm của Hải quân Hoa Kỳ đang tấn công vào chiếc tiểu tiềm thủy đỉnh của Sakamaki . Định bụng sẽ nhào xuống thanh toán chiếc khu trục hạm địch nhưng kịp nhớ ra số thủy lôi trên phi cơ mình đã phóng hết nên đành phải bay quanh mà nhìn .


  Chiếc phi cơ của Trung Tá phi đoàn trưởng Fuchida vẫn đảo quanh trên bầu trời Trân Châu Cảng . Từ trên cao nhìn xuống trận địa , trong đầu ông đang tính nhẩm một bài toán về sự thiệt hại mà phi đoàn của mình đã gieo cho địch quân trong khoảng thời gian chỉ hơn ba mươi phút . Toàn bộ chiến hạm đang thả neo trong quân cảng bị hủy diệt , ngoài những chiếc đã chìm , phần còn lại trên mặt nước cũng phát hỏa bốc cháy khủng khiếp .


  Đúng 8:55 , từ bầu trời phía đông , phi đoàn xung kích đợt hai đang ồ ạt tiến tới Trân Châu Cảng : 80 phi cơ đánh bom bổ nhào , 54 phi cơ oanh tạc và 36 chiến đấu cơ . Phi đoàn 170 phi cơ dưới sự chỉ huy của Thiếu Tá Shigekazu Shimazaki vừa trông thấy pháo lệnh tấn công tức thì chia ra hai đội , cùng nghiêng cách lướt qua khỏi ngọn núi phía Đông Honolulu tiến thẳng vào Trân Châu Cảng , nơi những chiến hạm đang thả đang bốc cháy ngùn ngụt và một đội khác hướng đến xưởng đóng tàu số một , nơi chiếc thiết giáp hạm thứ 8 là Pennsyvania đang thả neo .


  Một mục tiêu quan trọng là chiếc hạm Nevada , nó đang di chuyển chậm chạp ngang qua Arizona , một tuần dương hạm đang chìm trong biển lửa . Tuy khi bị trúng một trái thủy lôi của đợt không tập vừa rồi nhưng chiếc Nevada vẫn còn tri trì được , nó cố gắng vượt ra khỏi biển lửa . Khi di chuyển ngang qua chiếc Oklahoma , những thủy thủ còn sống sót trên chiến hạm ấy vội chạy ra lan can vẫy tay kêu cứu . Cảnh tượng thê thảm ấy không tài nào lọt qua khỏi những đôi mắt cú vọ của những phi công Nhật đang bay vòng trên đầu và chăm chú nhìn họ , tức thì không đầy 3 phút , 6 trái bom đồng loạt đánh trúng vào một mục tiêu . Chiếc Nevada bị bốc cháy và trôi dạt sang bờ biển đối diện , cách xưởng sửa chửa và chiếc Pennsylvania không xa mấy .


  Lại thêm một phi đội thứ 2 tức 6 chiếc pháo đài bay còn lại của Không quân Hoa Kỳ từ California bay ra . Lúc vừa tiến vào vùng trời của bờ biển Waikiki , Đại Úy Richard Carmichael , phi đội trưởng nhìn thấy có nhiều phi cơ vần vũ trên bầu trời Trân Châu Cảng , thoạt đầu ông nghĩ rằng Hải quân đang diễn tập cho đến khi nhìn thấy phía dưới quân cảng khói lửa ngút trời và hướng phi trường Hickam cũng thế . Đại Úy Richard hốt hoảng gọi ngay đến trạm không lưu để xin phép hạ cánh . Tiếng Thiếu Tá Gordon Blake vang lên từ tổng đài dưới đất “Hạ cánh từ hướng Tây” Rồi ông lại nói như ra lệnh “Cẩn thẩn . Phi trường đang bị tấn công”


  Nhưng đến lúc Richard hạ thấp phi cơ định đáp xuống thì những loạt đạn phòng không từ phía dưới bắn lên rất rát khiến cho ông phải cất cánh hướng về phía Bắc để đến phi trường Wheeler . Ở đây cũng đang bị tấn công nặng nề , túng quá cho nên Richard phải chuyển hướng đáp xuống Haleiwa , một phi trường phụ vỏn vẹn chỉ một phi đạo , nhưng lại quá ngắn so với loại pháo đài bay nặng nề này . Họ phải khéo léo tận dụng từng mét phi đạo và khó khăn lắm mới mang được cả 2 khối sắt khổng lồ  B-17 đáp xuống mặt đất một cách an toàn . Một chiếc B-17 khác thì đáp khẩn cấp xuống một sân gôn Kahuku gần đó , trong khi 3 chiếc còn lại vô phương chọn lựa nên phải đáp bừa xuống phi trường Hickam . Khi chiếc B-17 đầu tiên đáp xuống phi trường Hickam , hai vị sĩ quan  trong bộ quân phục gọn gàng chải chuốt vội vả bước ra . Rồi có ai đó từ bên trong căn cứ quát lớn như ra lệnh “Vũ khí của các anh đâu , hãy sẳn sàng chiến đấu !” Hai vị sĩ quan nhìn ra chung quanh thấy cảnh tượng hãi hùng , tiếng bom nổ đạn bay pha lẫn tiếng kêu la thảm thiết , khói lửa mù trời người chết nằm la liệt , kẻ sống thì đằng đằng sát khi súng đạn hườm hườm , chực nhớ lại mình chẳng có mang theo một thứ vũ khí nào bên người  lưỡi bỗng líu lại không nói thành lời vội chạy thẳng vào bên trong căn cứ .


  Lúc ấy tình hình ở phi trường Wheeler cũng rối rắm không ít . Mọi người vẫn còn bàng hoàng chưa choàng tỉnh sau trận mưa bom thứ nhất thì đợt oanh kích thứ hai lại bắt đầu . Trung Úy Overstreet đang cãi vả với lão Thượng Sĩ ban quân nhu về việc yêu cầu ông cung cấp một số súng đạn cần thiết để chiến đấu . Ông Thượng sĩ đòi hỏi phải có giấy phép xuất kho và hóa đơn ký nhận v.v . Overstreet nỗi dóa vừa xông vào kho súng vừa hét lớn “Ông đi chết đi , chiến tranh là gì ông có biết chưa hử ?”


  Phi trường Ford Island cũng cùng chung số phận , sau trận oanh kích đầu tiên tất cả phi cơ đã bị bom đạn phá hoại hư hỏng hoàn toàn . Sáu viên phi công chẳng biết làm gì hơn đành núp dưới tàn cây dùng súng trường nhắm vào phi cơ Nhật mà bắn . Tuy nhiên , sự dũng cảm của họ cũng được đền bù xứng đáng bằng 11 phi công  của Nhật bị bắn rơi . Trong số những phi công Hoa Kỳ dũng cảm dùng súng trường bắn máy bay địch ấy có Trung Úy Kenneth Taylor và George Welch .


  Tuy phi cơ và các căn cứ không quân của Hoa Kỳ đã bị tàn phá thê thảm đến nỗi không một phi cơ nào cất cánh nghênh địch được . Tuy nhiên lực lượng phòng không của họ càng lúc càng trở nên mạnh mẽ nhất là từ lúc 9 giờ sáng trở về sau , khi mà họ đã qua cơn bàng hoàng và đã lấy lại tư thế chiến đấu . Khi Trung Tá Shimazaki và phi đội 170 phi cơ của ông tiến vào Trân Châu Cảng mở đợt tấn công thứ hai thì gặp sức kháng cự quá dũng mãnh của quân trú phòng Hoa Kỳ . Phi đội này tuy không có mang thủy lôi nhưng những quả bom nặng ký ấy được những phi công thượng thặng dày dạn kinh nghiệm chiến đấu và đã được trãi qua một lớp huấn luyện đặc biệt để có thể tiêu diệt các mẫu hạm của Hoa Kỳ chỉ trong một trận tấn công thì sự đánh phá của họ không có thể đo lường được.


   Không có mẫu hạm hiện diện trong quân cảng thì họ quay ra đi tìm những chiến hạm còn đang ngất ngư sau đợt không kích đầu tiên mà dội bom tiếp . Trung Tá Egusa hướng dẫn các phi công của mình bay về phía núi như để lấy đà rồi quay vọt trở lại , một đội hình dày đặc với hỏa lực khủng khiếp . Những chiến hạm bị thiệt hại nhẹ vẫn còn có thể đối địch , những họng súng phòng không của họ hoạt động dữ dội gây khó khăn nguy hiểm không ít cho đợt tấn công lần này . Nhưng những ụ súng phòng không ấy lại là mục tiêu cho phi cơ oanh tạc không ngừng . Súng từ phía dưới bắn lên , bom từ trên dội xuống những tiếng nổ liên tục nối tiếp nhau , khói lửa mù trời , tiếng kêu la dậy đất .


  Trong lúc phi đội của Egusa quần thảo với phòng không để phá hủy những chiến hạm còn sống sót thì phần còn lại các oanh tạc cơ của Shimazaki tập trung tại hai phi trường Hickam và Ford Island cùng căn cứ không quân Kaneohe . Không một phi cơ nào của đợt này bị phòng không bắn hạ mặc dù không ít trong số bị trúng đạn . Và đội chiến đấu Zero cũng không có một phi cơ địch nào lên nghênh chiến vì sau đợt tấn công thứ nhất của phi đội Fuchida , tất cả phi cơ của Hoa Kỳ coi như đã bị loại khỏi vòng chiến .


   Phi công Zero Fujita bay lên cao 18 ngàn bộ cùng với Iida, sĩ quan chỉ huy toán phi cơ Zero, để quan sát và tìm phi cơ Mỹ. Hai người bay lượn quanh đảo hai lần nhưng không thấy một phi cơ địch nào. Nhưng hỏa lực phòng không của Mỹ quả thực ác liệt hơn người Nhật tưởng, và hai người có cảm tưởng đang bay trong giữa một bầu trời bắn pháo bông vậy. Iida là một trung úy 27 tuổi và là một phi công cừ khôi đã chiến đấu hai năm tại Trung Hoa. Trong trân Trân châu cảng, Iida hướng dẫn các phi công Nhật thiếu kinh nghiệm trong đợt tấn công đợt hai. Bất kể đạn súng máy bắn lên, Iida lao xuống các nhà chứa máy bay và bắn phá đốt cháy các phi cơ. Khi đợt tấn công chấm dứt, Iida bay lượn quanh phi trường Kaneohe để kiểm soát xem các tất cả phi cơ có trở về thành đội hình không thì một viên đạn từ bên dưới bắn trúng phi cơ Đô Đốc Yamamoto cùng những sĩ quan tham mưu hiện có mặt trên soái hạm Nagato thả neo tại Hashirajima . Họ tuy không hẹn nhưng cùng thức dậy rất sớm , lúc 2:00 sáng , tức một tiếng đồng hồ trước khi cuộc không tập Trân Châu Cảng mở màn . Họ chẳng buồn nói chuyện với nhau , vẻ mặt ai nấy đều nghiêm trọng hướng đôi mắt về cây kim đồng hồ treo trên vách . Lòng nặng nề cứ nhích chầm chậm theo vòng quay của cây kim chỉ phút . Steward Omi mang trà và bánh ngọt ra cho mọi người dùng hầu giảm bớt sự căng thẳng tưởng chừng sắp vỡ tung ra . Bỗng dưng một giọng nói đầy vẻ xúc động vang lên trong ống dẫn âm “Cuộc không tập bất ngờ của chúng ta đã thành công !” . Đó là lời báo cáo của viên sĩ quan truyền tin trên phòng truyền tin vì ông vừa nhận được tín hiệu Tora tức “Mãnh hổ” của Trung Tá chỉ huy phi đoàn Fuchida gửi về từ Trân Châu Cảng .


  Bản tin chiến thắng ấy đáp ứng được sự hồi hộp mong đợi của mọi người . Sau một giây im lặng căn phòng bỗng trở nên ồn ào náo nhiệt . Mọi người đồng đứng chồm lên ôm nhau mừng rỡ , họ như trút bỏ được một khối nặng nghìn cân , ai nấy hân hoan nói cười huyên thuyên . Đô Đốc Yamamoto cúi đầu cố giấu sự vui mừng đang dâng trào trong ông . Omi mang rượu Sa kê , khô mực ra ăn mừng chiến thắng . Ly cụng ly , chén cụng chén ai nấy hả hê nên rượu càng vào càng thêm cao hứng .


  Yamamoto truyền lệnh cho đoàn xung kích nội nhật ngày nay phải rút lui khỏi Hạ Uy Di để hạm đội của ông có thể yễm trợ cho họ trong trường hợp bị Hải quân Hoa Kỳ đuổi theo tấn công .


  Bây giờ chúng ta hãy trở lại hạm đội xung kích ở vùng biển Hạ Uy Di , sau hai đợt phóng phi cơ và oanh tạc thành công biến Trân Châu Cảng thành bình địa rồi thì các phi cơ còn sống sót lại trở vầ mẫu hạm . Để xem họ trở về như thế nào đây .


   Chiếc phi cơ đầu tiên trở về mẫu hạm đúng 10 :00 sáng . Thời tiết lại trở nên xấu đi nhiều , biển động mạnh khiến cho sàn tàu lắc lư , rất khó khăn cho những phi cơ đáp xuống . Một số phi công hoàn thành nhiệm vụ an toàn trở về từ chiến trường nhưng lại lâm nạn khi cho phi cơ hạ cánh . Trung Úy Matsumura vừa trông thấy mẫu hạm Hiryu hiện ra trước mắt , anh mừng rở điều chỉnh phi cơ quay một vòng rồi từ từ hạ xuống ở một độ cao cho phép . Sàn tàu lắc lư theo những ngọn sóng khổng lồ khiến cho một viên phi công dạn dày kinh nghiệm như Matsumura cũng cảm thấy bất an khi cho phi cơ mình hạ cánh . Anh mở mắt nhìn đại dương mênh mông với những đợt sóng khổng lồ như những trái đồi chạy dài đến bất tận . Hiryu trước mắt anh sao có vẻ chơi vơi bé bỏng quá , sân đáp cheo leo như một sợi chỉ kéo thẳng nhưng lại bấp bênh theo cơn cuồng nộ của thủy thần . Anh giảm tốc lực , từ từ hạ thấp dần thấp dần và cuối cùng thì bánh sau của phi cơ chạm nhẹ trên sàn Hiryu . Chiếc móc phía sau đuôi vừa móc cứng vào sợi dây cáp trên sàn mẫu hạm giảm sức lướt của chiếc phi cơ cho đến khi nó dừng lại hẳn . Matsumura thở phào nhẹ nhỏm . Anh không bao giờ tưởng tượng nỗi là mình có thể trở về một cách an toàn như thế . Và quả thật , anh vẫn còn sống .


    Nhiều phi cơ Nhật trong lần tấn công đợt hai bị trúng đạn, nhưng phần lớn cố gắng bay trở về được mẫu hạm . Trung Tá Fuchida là người cuối cùng trở về sau khi bay sau cùng để hộ tống an toàn cho đàn em út vừa hoàn thành sứ mạng . 


  Nagumo được Fuchida báo cáo kết quả của cuộc tấn công. Fuchida cho biết còn một số mục tiêu nữa cần phải triệt hạ và đề nghị Nagumo cho mở một đợt tấn công nữa. Ý kiến của Fuchida không được các cấp chỉ huy khác tán thành, vì họ không muốn các mẫu hạm và phi cơ gặp nguy hiểm nữa vì sức mạnh phòng không của Mỹ rất hữu hiệu, mặc dù các phi cơ Nhật trở về được, đã được tiếp tế nhiên liệu và sẳn sàng cho một cuộc tấn công nữa. Sau khi nghe các ý kiến trái ngược của các sĩ quan chỉ huy không quân, Nagumo kết luận rằng không quân Nhật sẽ gặp nhiều nguy hiểm trong đợt tấn công thứ ba và chưa chắc đã gây được nhiều tổn hại cho Mỹ. Nagumo quyết định ngưng cuộc tấn công. Ðúng 1:30, cờ hiệu trên soái hạm Akagi ra lệnh cho các mẫu hạm quay về hướng nam. Tất cả các mẫu hạm mở hết tốc lực chạy xa khỏi chiến trường .


  Ông Bộ trưởng Hải quân Hoa Kỳ Frank Knox hiện có mặt trong văn phòng của Bộ Hải quân Hoa Kỳ trên con đường Constitution Avenue . Lúc này đã gần giờ nghỉ trưa nên ông thấy đói bụng định gọi một thứ gì đó để dùng buổi trưa , bỗng cánh cửa phòng xịch mở , Đô Đốc Stark chạy lùa vào với bức điện báo của Kimmel , chỉ huy trưởng Hải quân ở Hạ Uy Di . Knox nhìn thấy bức điện báo sững sờ giây lâu rồi cất tiếng kêu trời mà rằng “Có lẽ nào lại như vậy ! Tôi cứ đinh ninh rằng họ sẽ tấn công Phi Luật Tân đấy chứ !” . Stark nhắc lại cho ông nghe một lần nữa là Trân Châu Cảng vừa bị Nhật oanh kích , việc ấy dù không tin nhưng nó đã xảy ra rồi , Knox cầm lấy điện thoại báo cáo thẳng với Tòa Bạch Ốc . Lúc ấy là 1:47 chiều , Tổng Thống Roosevelt  đang dùng buổi trưa với cố vấn Harry Hopkins tại bàn làm việc trong phòng bầu dục .


  Vừa nghe bản báo cáo xong , Hopkins vội lên tiếng trấn an tổng thống “Coi chừng nhầm lẫn . Tôi chắc chắn Nhật Bản không bao giờ tấn công Trân Châu Cảng” . Nhưng Roosevelt thì nghĩ có lẽ bản báo cáo này là sự thật nên ông khoát tay và nói “Đó cũng chỉ là một việc mà Nhật có thể làm trong khi mình không tài nào ngờ đến” . Rồi ông lại đề cập đến những điểm mà mình đã nổ lực cố gắng đạt cho bằng được để tạo một nền hòa bình chung cho hai quốc gia . Cuối cùng thì ông lại thở dài mà nói với giọng trầm buồn “Nếu bản báo cáo này là sự thật thì mọi chuyện đã vượt ra khỏi tầm tay của tôi rồi”


  Roosevelt điện thoại đến cho Ngoại trưởng Hull lúc 2:05 chiều , với giọng điềm tỉnh ông sơ lượt bản tin xấu vừa nhận được cho Hull nghe . Hull bảo với ông rằng hiện Đại sứ Nomura cùng với Kurusu cũng vừa đến và đang ngồi chờ ngoài phòng khách của bộ ngoại giao . Roosevelt bảo Hull nên đón tiếp họ và đừng đề cập gì đến Trân Châu Cảng . Ông còn dặn thêm rằng cứ tự nhiên lấy nghi thức ngoại giao mà tiếp đón họ như bình thường và coi như chẳng có gì xảy ra cả . Xong ông quay ra điện thoại cho Bộ trưởng Quốc phòng Henry Stimson , lúc ấy ông ta đang về nhà dùng bữa trưa , để hỏi nếu ông bộ trưởng quốc phòng đã hay biết chuyện gì đang xảy ra .


  Stimson điềm tỉnh nói “Thưa Tổng Thống , tôi có nghe loáng thoáng rằng có một bức điện tín báo cáo về việc Nhật Bản đang chuyển quân đến vịnh Thái Lan” . Roosevelt nhấn mạnh “Không , ý của tôi không phải việc ấy đâu” . Và giọng của ông lại gằng mạnh từng tiếng như để ông bộ trưởng quốc phòng nghe cho thật rõ “Họ đang tấn công Hạ Uy Di . Không , tôi phải nói rõ hơn là hiện giờ họ đang tấn công Trân Châu Cảng”


  Stimson ngẫn người giây lâu rồi buột miệng nói một mình “Thật đúng là một bản tin sét đánh” . Một ý tưởng vụt thoáng qua trong đầu ông “Mối hoài nghi làm cho mình do dự chưa quyết bấy lâu bây giờ đã rõ và hiện tại nó đã trở thành một cơn khủng hoảng cho tất cả đồng bào của chúng ta”


  Lúc ấy tại Bộ Ngoại giao , Hull nói với Joseph Ballantine “Tổng Thống vừa nhận được một báo cáo chưa chứng thật rằng Nhật Bản tấn công Trân Châu Cảng . Đại sứ Nhật lại đang ngồi đợi để được gặp tôi . Tôi đã biết là họ đang muốn giở trò gì rồi . Hừ , trò chơi của họ là muốn gạt bỏ bản đề nghị 26/11 của chúng ta . Có thể đây là lời tuyên chiến của họ . Thật sự thì tôi chẳng muốn gặp họ nhưng nghe lời khuyên của Tổng Thống nên cực chẳng đã phải tiếp kiến họ một phen . Bởi vì Tổng Thống vẫn còn mang chút hy vọng là bản báo cáo Trân Châu Cảng kia đã báo cáo sai sự thật”


  Ngồi thấp thõm trong phòng đợi của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ , Đại sứ Nomura lặng nghe trái tim đập thình thịch cùng hơi thở dồn dập đứt quãng , đó là do hậu quả của một đoạn đường ngắn mà vị Đô Đốc hồi hưu này đã cố sức đi như ma đuổi để kịp đến đây cho đúng hẹn . Tuy nhiên ông cũng đã trễ hơn 1 tiếng đồng hồ , nguyên do cũng vì Okumura cứ mang 14 phần của bản giác thư ra mà đánh máy đi đánh máy lại đôi ba lần nhưng chẳng lần nào ông vừa ý cả . Sốt ruột quá cho nên Nomura không thể chờ đợi được nữa , ông đến bên bàn giật phăng bản giác thư trong tay Okumura rồi ba chân bốn cẳng phóng nhanh sang Bộ Ngoại giao để trình lên cho Hull , dù rằng bên trong bản giác thư ấy vẫn còn vướng mắc một vài lỗi lầm khi đánh máy , nhưng Nomura cũng chẳng có đủ thời gì để đọc và kiểm tra lại lần cuối . 


  Sau một hồi lâu ngồi ngoài phòng đợi , cuối cùng rồi Nomura và Kurusu cũng được gọi vào văn phòng để gặp Hull , lúc ấy là 2:20 chiều .    


   Ngoại trưởng Hull tỏ vẻ lạnh lùng khi gặp họ , ông từ chối bắt tay và cũng chẳng mời hai người ngồi .


  Nomura đưa ra bao thơ , bên trong là 14 phần của bản giác thư , rồi nhìn Hull , ông trịnh trọng nói “Tôi được lệnh là trao tận tay Ngài bản giác thư này lúc 1 giờ chiều”


  Hull nghiêm mặt trầm giọng hỏi “Tại sao lại là 1 giờ chiều ?”


  Nomura thành thật đáp “Tôi cũng không rõ lý do là vì sao thưa Ngài” Miệng thì trả lời như thế nhưng ông không dấu được vẻ bối rối hiện rõ trên khuôn mặt vì ông lầm tưởng có lẽ vì mình và Kurusu đến trễ nên Ngoại trưởng Hull lộ nét không vui .


  Hull vội chộp lấy bản giác thư rồi giả vờ như đọc lướt qua . Bất giác giọng nói của ông trở nên chậm rãi và chắc nịch , trong mỗi lời nói đều hàm chứa một sự phẩn uất tột cùng khiến cho người đối diện đoán chắc đây là những lời đắng cay châm chích . Hull nói “Tôi phải nói rằng tất cả những cuộc đàm thoại giữa ông và tôi trong vòng 9 tháng trở lại đây , tôi dứt khoát không hề có một câu hoặc một chữ không thành thật  . Điều này đã được xác nhận là tuyệt đối . Với năm mươi năm thời gian phục vụ công chúng , tôi chưa bao giờ nhìn thấy một bản văn thư ngoại giao chứa đầy những sự dối trá , lừa lọc và bỉ ổi ; một bản văn thư mà tôi không bao giờ tưởng tượng là trong bất cứ chính phủ nào trên hành tinh này có thể soạn ra được”


  Nomura vừa mở miệng định nói lên điều gì đó nhưng Hull lại khoát tay chỉ ra cửa , trịch thượng mời hai người đi về . Nomura cảm thấy quá bối rối , ông miệng nói lời chào tạm biệt nhưng chân bước lại gần Hull chìa tay ra để bắt tay từ giả . Lần này thì Ngoại trưởng Hoa Kỳ cũng đưa tay ra bắt lại , nhưng khi hai người vừa bước ra khuất bóng sau cánh cửa thì ông đứng trợn mắt nhìn theo mà miệng chữi thầm “Đồ vô lại !” 


   Tại tòa đại sứ Nhật Bản gần đó , Okumura cũng vừa tiết lộ bản tin “Phi cơ của chúng ta đã đánh bom Trân Châu Cảng !” cho nhân viên tòa đại sứ nghe . Tùy viên quân sự Isoda nước mắt lưng tròng , bước tới bên cạnh Nomura buồn bả nói “Sự việc đáng tiếc này sẽ mang lại hậu quả “rất gay go” cho dù Ngài có cố gắng cách mấy cũng thế mà thôi” Nói đoạn anh ta quay ra nhìn vào khoảng trống không mà rằng “Nhưng , Trời hỡi . Đây có phải chăng là Thiên mệnh !” Bất giác Nomura nghe lòng cảm động cực độ , không ngờ giữa lúc chuyện rối bòng bong , một lời nói chân tình thốt lên từ một quân nhân cũng giúp cho mình tìm được một chút khuây khỏa .


  Lúc ấy tại Bộ Hải Quân , Đô Đốc Stark đã cho đánh điện tín truyền hiệu lệnh đến tất cả chỉ huy trưởng trên toàn cõi Thái Bình Dương và Panama “Không hạn chế phi cơ và tiềm thủy đỉnh , tiến hành một cuộc chiến chống lại quân đội Nhật Bản”


  Cách đấy vài mươi mét , Tướng Knox đang dùng điện thoại liên lạc trực tiếp với Trân Châu Cảng . Ông đang điện đàm cùng vị chỉ huy trưởng căn cứ Hải quân 14 , Đô Đốc Claude C.Bloch , người đang ngồi chứng kiến cảnh tượng hoang tàn đổ nát , chiến tích của một cuộc oanh tạc rùng rợn mới vừa xảy ra chưa đầy 1 tiếng đồng hồ . Đô Đốc báo cáo sơ lượt về sự thiệt hại của những thiết giáp hạm “Oklahoma và Arizona bị thiệt hại trầm trọng nhưng Pennsylvania và Tennessee thì chỉ bị hư hại bên ngoài . Tuy California bị đánh chìm nhưng chúng tôi có thể trục nó lên được không hề gì . Rất may là xưởng đóng tàu và những kho chứa dầu không bị thiệt hại gì cả”


  Những người hâm mộ môn bóng cầu dục lắng nghe bài tường thuật tại chỗ của trận đấu Giants-Dodgers qua làn sóng radio là những người Hoa Kỳ đầu tiên ngoài công chúng biết được bản tin chấn động này . Lúc 2 : 26 chiều , đài WOR cho gián đoạn bài tường thuật trận đấu để phát thanh một bản tin đặc biệt . Tất cả mọi người từ bần dân hạng thứ cho đến kẻ giàu sang tột đỉnh thảy đều tỏ ra căm hận hành động của Nhật , họ dùng mọi ngôn ngữ bình dân thô tục để chữi mắng không tiếc lời . Thậm chí người ta cũng chẳng cần điều tra xem tay nào đã đốn bỏ cả hàng cây anh đào xum xuê cành lá trồng dọc theo bờ sông ở Newyork , bởi nó là món quà của chính phủ Nhật đã tặng cho Hoa Kỳ từ nhiều năm trước đây , và bây giờ lại trở thành cái đích cho họ trút bỏ cơn phẫn uất , cho dù chẳng gỡ gạt lại được tí nào đó sĩ diện của đàn anh da trắng thường tự hào là ta đây cái gì cũng nhất nhưng đã bị bọn đàn em da vàng “chơi một vố quá đau” . Rồi một cộng đồng to lớn của người Mỹ gốc Nhật đã từng sống lâu đời tại đây cũng lên tiếng phản đối chính phủ Nhật , một bức kiến nghị thư được gửi đi từ Câu lạc bộ Tozai đến Tổng Thống Hoa Kỳ “Chúng tôi là những công dân Hoa Kỳ gốc Nhật Bản hiện đang sinh sống tại thành phố Newyork và các vùng phụ cận sẽ liên kết cùng tất cả con dân Hoa Kỳ , đồng lên án sự gây hấn của Nhật Bản và hành động xâm lăng lãnh thổ Hoa Kỳ . Chúng tôi sẳn sàng tham gia và ủng hộ công cuộc chống ngoại xâm , bảo vệ quốc gia của chính phủ Hoa Kỳ” 


  Lại có một nhóm người ngang bướng từ đâu kéo tới tụ tập trước cửa Tòa Đại sứ Nhật Bản trên con đường Massachusetts . Họ điện thoại vào tòa đại sứ và yêu cầu đích danh Kurusu trả lời máy . Một người tự xưng là Ferdinand Mayer muốn nói chuyện với Kurusu . Trước khi chưa vào làm việc cho bộ ngoại giao Hoa Kỳ , Mayer và Kurusu vốn là đôi bạn chí thân khi còn ở Bá Linh . Mayer cho biết là ông ta rất lấy làm vui lòng khi được gặp lại Kurusu , nhưng không đề cập đến cuộc gặp gở này là do sự đề nghị của Đại tá Donovan , vị chỉ huy của một tổ chức tình báo , tổ chức này sẽ trở thành cơ quan OSS (Office of Strategic Service) một cơ quan chuyên hoạt động tình báo đầu tiên của Hoa Kỳ mà cũng là tiền thân của CIA sau này .  


  Kurusu trả lời điện thoại , với giọng đứt quãng anh ta bảo rằng rất cám ơn , nhưng không thích ai quấy rầy mình trong lúc này . Nhất là từ lúc có nhóm người “không mấy gì thân thiện” xuất hiện trước cửa tòa đại sứ . Nghe giọng nói của Kurusu , Mayer cũng có thể đoán ra được là cảm xúc của hắn đang bị đè nén đến tột độ và gần như là đã quá tuyệt vọng” . Quả thật Mayer đoán không sai tí nào cả , Kurusu vẫn còn cay đắng đối với Hull , người đã tỏ ra quá ngạo mạn và biểu lộ sự khinh thường mình không chút đắn đo trong cuộc gặp gở vừa rồi . Lão già ấy cứ nghĩ rằng mình đang cố gắng hết sức những gì mình có thể để duy trì hòa bình . Mọi rắc rối xảy ra đều do cả hai Hoa Kỳ và Nhật Bản , họ như những đứa con nít háo thắng trong khi ngoại giao thì cũng chẳng già dặn chính chắn gì hơn để bây giờ hai đứa con nít nhảy vào chơi một trò chơi chiến tranh khờ khạo với nhau là đúng lắm .     


  Ngay buổi tối hôm ấy (07 tháng 12) toàn bộ nhân viên sứ quán Nhật Bản bị đưa vào ở chung trong một khách sạn sang trọng dưới sự kiểm soát chặc chẻ của nhân viên an ninh và ông phụ tá bộ ngoại giao Hoa Kỳ là Adolf A.Berle . Đại sứ Nomura ngõ lời yêu cầu xin một thanh gươm Nhật nhưng Berle từ chối ngay vì ông chỉ e nếu Nomura dùng gươm tự sát thì sự an nguy của Đại sứ Grew ở Đông Kinh sẽ không được bảo đảm .


  Cũng trong đêm ấy , lúc 8:30 Nội các Hoa Kỳ cho triệu tập một phiên họp đặc biệt ngay trong “căn phòng màu hồng” trên tầng thứ 2 của Tòa Bạch Ốc . Tất cả thành viên trong Nội các đều ngồi trên những dãy ghế hình bán nguyệt mặt hướng về chiếc bàn của Roosevelt ở giữa . Đây là một cuộc họp tối quan trọng , có thể nói từ khi xảy ra cuộc nội chiến cho đến bây giờ Nội các Hoa Kỳ mới cho triệu tập một buổi họp đặc biệt đến như thế . Tổng Thống Roosevelt long trọng đọc lời tuyên bố lý do buổi họp , sau đó đọc lên những con số thống kê chính thức vừa được cập nhật về sự thiệt hại của Trân Châu Cảng . Rồi ông chầm chậm đọc cho mọi người nghe kế hoạch dự định sẽ mang ra trình Quốc hội vào trưa hôm sau .  


                                  ………………………………………….


 


  Tại Đông Kinh . Nội các chính phủ Nhật vừa triệu tập khẩn một phiên họp bất thường một giờ trước lúc rạng đông . Shigetaro Shimada , bộ trưởng Hải quân mở đầu phiên họp bằng bản báo cáo sơ lược những thành quả vừa đạt được ở Trân Châu Cảng . Ông đọc bản báo cáo bằng một giọng hùng hồn , khi trầm lúc bổng như gieo chú ý đến cho người nghe , để họ chiếu cố đến những phi vụ quả cảm , những chiến công hiển hách mà phi công Hải quân của ông vừa mang về cho quốc gia dân tộc . Văn bản quyết định khai chiến được soạn vội vàng , đồng ký tên và chuyển ngay đến Quản Thủ Quốc ấn .


  Viên quan Quản thủ Quốc ấn Kido , người luôn đứng về phía phản đối chiến tranh đang lái xe trên đường từ nhà đến Hoàng cung . Ông vẫn còn bàng hoàng với bản tin Trân Châu Cảng , ánh nắng hồng của buổi ban mai chiếu xiêng vào kính xe khiến cho ông cảm thấy đôi mắt chói lòa . Khi xe dừng lại đợi đèn bên ngã tư đường , Kido mở to mắt nhìn ánh thái dương mà lòng thầm cầu nguyện . Ông tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến đấng thiêng liêng , đã phò trì cho bước liều mạng đầu tiên của Nhật Bản đã đạt được thắng lợi . Là một người Nhật ái quốc , Kido cũng kỳ vọng cho một chiến thắng vinh quang sau này .


  Cách Cung điện không xa là đài phát thanh thủ đô . Thông tín viên Morio Tateno kiểm tra lại những bản tin chính trong ngày trước khi mở máy vi âm để đọc lúc 7 giờ sáng . Anh cố gắng lắm mới đè nén được những xúc cảm đang dâng trào trong huyết quản , anh trầm giọng đọc lời tuyên bố của quân đội Thiên Hoàng khai chiến với quân đội Anh và Mỹ trong vùng biển Thái Bình Dương vào rạng sáng ngày 08 tháng 12 năm 1941 .


  Bản tin được phát ra từ hàng trăm loa phóng thanh cực mạnh giăng mắc cùng khắp trong thành phố , tiếng nói trầm hùng của Morio Tateno gây chú ý cho công chúng , họ ngưng ngay mọi hoạt động để lắng nghe . Đó đây vang lên những tràng pháo tay như sấm động , du khách ngoại quốc không hiểu tiếng Nhật cũng ngẫn ngơ nhìn quanh quất một hồi rồi rùn vai chẳng hiểu . Chẳng biết trò chơi gì mà họ vỗ tay nghe vui thế ?


  Tin chiến tranh lan ra , đa số con dân thảy đều nhiệt tình ủng hộ , họp nhau xuống đường tung hô vang dậy . Nhưng ngược lại có nhiều vị lão niên , họ điềm tỉnh hơn nên âm thầm tụ họp với nhau bàn bạc một lúc rồi kéo thẳng đến trước cổng Hoàng cung , đồng quỳ xuống nguyện cầu cho một ngày chiến thắng vinh quang . Trên khuôn mặt trang nghiêm kính cẩn của những bậc lão niên này người ta chẳng hề nhìn thấy họ lộ một chút gì để gọi là hân hoan mừng rỡ . Trong gian hàng mua sắm , những người chủ sạp báo cho phô trương những bản tin “đặc biệt” . Lời rao tiếng chào , người mua kẻ bán không khí tưng bừng như ngày lễ hội . 


  Phòng làm việc của viên quan Quản thủ Quốc ấn tuy rất thoáng và rộng vô cùng nhưng hôm nay lại chật chội không khí khó thở vô cùng . Toàn bộ chỉ huy đầu não của Đông Kinh đều tề tựu hết tại đây để thảo luận và quyết định một số chi tiết quan trọng . Một vấn đề được mang ra bàn cãi lâu nhất là tại sao Hòa Lan lại không nằm trong 3 quốc gia phương Tây mà quân đội Thiên Hoàng đã tuyên chiến , và lý do gì chỉ có Anh và Mỹ mà thôi . Bàn qua cãi lại nhưng đến trưa việc vẫn chưa có câu trả lời chính xác . Thế rồi Ngoại trưởng Togo đưa ra quyết định chẳng thay đổi gì cả . Ai nghĩ sao mặc họ .


  Đến trưa thì Thiên Hoàng Hirohito đóng ấn ký hợp thức hóa quyết định khai chiến . Sau đó Hirohito còn dùng bút ghi xuống một dòng để biểu lộ sự hối tiếc của đấng Thiên Hoàng khi tình thế bắt buộc phải quyết định xuất quân đối đầu với Anh và Mỹ . Và phía dưới , ông mở ngoặc viết thêm một dòng “Tất cả vì vinh dự tổ quốc , vì Đế chế Đại Nhật Bản , hãy mạnh dạn đứng lên xây dựng một tiền đồ vinh quang” .


  Marquis Kido liếc nhìn thấy sắc diện của Thiên Hoàng không lộ vẻ gì phiền muộn lo âu . Nhưng sau buổi họp ai nấy đều ra về , còn một mình trong phòng với Kido , Hirohito chợt thở dài thườn thượt mà tâm sự rằng trái tim của ông tan nát khi đặt bút ký sắc lệnh khai chiến với Anh và Mỹ . Làm sao người ta có thể dung thứ khi quyết định trở mặt , quay lại đối đầu với những người bạn chí thiết như các thành viên trong Hoàng tộc Anh Quốc . Kido im lặng vì ông không biết phải nên trả lời ra sao .

  Cùng một lúc ấy trên đài radio quốc gia cho phát thanh bài diễn văn khai chiến của Thủ tướng Tojo . Lời văn không hoa mỹ , giọng của ông không hùng hồn nhưng rất trang nghiêm quyết liệt . Ông nói “Người Tây phương cố tạo mọi ảnh hưởng với ý đồ chinh phục cả thế giới , tham vọng bá quyền của người da trắng đã và đang lan rộng đến cả phương Đông của chúng ta . Nhiệm vụ của chúng ta là phải phá tan ý đồ đen tối của họ trước khi không còn chỗ đứng dù là ngay trên quê hương đất nước của chính mình . Phải tiêu diệt kẻ thù và tái lập trật tự trên toàn cõi Đông Á , một thử thách lớn mà quốc gia của chúng ta đang đối diện , một cuộc chiến trường kỳ mà quân đội chúng ta đang lao vào …” Số phận của Nhật Bản và Đông Á đang bị đe dọa và một trăm triệu con dân xứ Phù Tang này cũng đâu thể ngồi nhìn . Bổn phận của chúng ta cho dù có phải hy sinh đến tính mạng cũng không thể nào chùn bước , quyết lấy hết sức mình ra phục vụ cho Thiên Hoàng , cho sơn hà xã tắc .


  Chính phủ Nhật Bản e ngại tiếng súng mở màn ở bán đảo Mã Lai nổ ra sớm hơn dự định sẽ ảnh hưởng không tốt đến cuộc không tập thình lình ở Trân Châu Cảng . Nhưng việc đáng ngạc nhiên là Luân Đôn không báo động gì cả . Càng ngạc nhiên hơn là Thủ Tướng Anh Churchill cũng chẳng biết chuyện gì xảy ra ở Trân Châu Cảng , cho đến tận 2 tiếng rưỡi đồng hồ sau khi quân cảng bị tấn công ông mới nghe được qua bản tin ở đài phát thanh . Trong lúc ông cùng hai người bạn Hoa Kỳ nghỉ cuối tuần ở một trang trại vùng ngoại ô Luân Đôn . Chín giờ tối hôm ấy họ ngồi quây quần bên cái radio nghe đài BBC . Sau bản tin thời sự nóng bỏng tường thuật chiến tranh bùng nổ khắp vùng Nam Á rồi mới đọc đến một bản tin “phụ” khác là Nhật mở trận không tập vào Trân Châu Cảng .


  Hai người bạn Hoa Kỳ của Churchill ngồi chết điếng trên ghế . Một trong hai người ấy là John Winant , Đại Sứ Hoa Kỳ tại Anh quốc . Nghe bản tin như sét đánh ngang tai chỉ biết ngồi mà nhìn Churchill sững sờ . Ông thấy Churchill gục đầu im lặng , miệng liên tục rít xì gà từng hơi dài như bất tận rồi ưu tư nhìn theo những sợi khói mong manh quyện vào không gian , Giây lâu sau , ông đứng lên quay đi về phía phòng làm việc tạm . Tin chắc là vị Thủ tướng năng động sẽ điện thoại về Tổng hành dinh của ông đề nghị tuyên chuyến với Nhật Bản nên Winant gọi vói theo “Ông không thể tuyên chiến bằng radio !” Churchill vội hỏi lại “Tôi phải nên làm gì đây ?” Winant đề nghị “Để tôi gọi cho Tổng Thổng để hỏi Ngài xem thật hư thế nào đã”. Nói đoạn ông đi ngay vào phòng làm việc , gọi thẳng về Hoa Thịnh Đốn . Khi Roosevelt trả lời , Winant vội nói “Tôi có một người bạn , ông ấy muốn thưa chuyện cùng Ngài . Khi nói chuyện với người ấy Ngài sẽ biết là ai ngay” Churchill cầm lấy điện thoại “Thưa Tổng Thống . Chuyện gì đã xảy ra ?” Roosevelt biết ngay đó là Thủ tướng Churchill liền nói ngay “ Đó là sự thật . Họ tấn công Trân Châu Cảng . Tôi với Thủ tướng đang ngồi cùng thuyền đấy” 

  

Comments

Popular posts from this blog

Bài viết của Thích Đu Đỉnh

Xin chào anh chị em CK. Lâu rồi em chưa bốc phét, chém gió với mọi người. Tuy em off khá là lâu, nhưng em rất vui vì có rất nhiều anh chị em, cả sếp T.A inb hỏi thăm, cảm ơn tất cả tình cảm của mọi người dành cho em, nay em lại ngoi lên 1 chút để chia sẻ với mọi người 1 số quan điểm sau cuộc họp FOMC vừa qua, cũng có thể liên quan đến 1 số dữ liệu trước đó nữa. Bài viết này em nghĩ sẽ khá là dài, hi vọng mọi người sẽ đọc hết bài viết này vì nó rất có thể ảnh hưởng đến quyết định đầu tư của mọi người trong những tháng cuối năm 2024 và thậm chí, sẽ kéo dài qua tới năm 2025.... Rốt cuộc sau 4 năm thì Fed mới cắt giảm lãi suất, rất nhiều chuyên gia Phố Wall, các thống đốc Fed đã nghỉ hưu, các thành viên FOMC cũng lên tiếng về việc này và thậm chí cả cựu chủ tịch Fed xưa cũ đều đưa ra thông điệp là Fed nên cắt 0.25% là tốt cho thị trường. Ở các cuộc họp FOMC trước đây, Fed luôn điều hướng thị trường bằng việc cho chúng ta thấy được gần như chắc chắn Fed sẽ cắt hoặc tăng lãi suất lên bao nhi...

CUỘC ÁM SÁT HOÀNG GIA

Tư liệu lịch sử. Bài khá dài, bạn đừng đọc nếu không chịu được chuyện chém giết dã man. ... Gần 1 năm sau CM10 Nga, đặc vụ Cheka (tiền thân của NKVD và KGB sau này) đã hạ sát vợ chồng Sa hoàng cùng 5 con, người nhỏ tuổi nhất là hoàng tử Alexei 14 tuổi vốn mắc chứng bệnh không đông máu. Cùng bị giết là 4 người thân cận của họ. Sau những cuộc điều tra công phu và dựa vào cả hồi ức của một số sát nhân, toàn cảnh vụ ám sát gia đình Sa hoàng đã được dựng lại. Xin đưa lại như tài liệu tham khảo cho các bạn nào quan tâm lịch sử. . 1. Ngày 14/7/1918, Yakov Yurovsky chỉ huy trưởng Cheka tại nhà giam Ipatiev thuộc tỉnh Yekaterinburg đã có trên tay kế hoạch cuối cùng cho cuộc hành quyết gia đình Sa hoàng và thủ tiêu tang chứng, với sự tham gia của Piotr Ermakov, chính ủy tiểu đoàn công nhân tình nguyện Verkh-Isetsk khét tiếng. Ngày 16/7, lãnh đạo Soviet Ural Goloschyokin và Safarov gửi mật điện lên Moskva lúc 6 giờ chiều, và Yurovsky kể lại y nhận được mật điện chuẩn y vụ hành quyết lúc 7 giờ tố...

PI IS NOT FREE MONEY

Đôi lời gởi tới các bạn Pioneers, Vốn dĩ mình đã ở ẩn từ lâu từ sau vụ PNG , Trang Trại Pi Nodes , CVG 314k vừa ngu vừa ngáo quá thắng thế thành công tẩy não cộng đồng Pioneers và khiến cộng đồng luôn mang tư duy Pi lên sàn phải có giá cao để bán ( xả ) Pi để lấy tiền tiêu nên kể từ đó đến giờ 2 năm mình chọn ở ẩn và chẳng quan tâm tới các cộng đồng ngáo đá nữa . Nay có một thằng em FB hỏi thăm về Pi và mang hy vọng Pi có trong danh sách Quỹ Dự Trữ Chiến Lược Kỹ Thuật Số ( Strategic Crypto Reserver - SCR ) của Tổng Thống Trump ngày 7 tháng 3 sắp tới nên mình có đôi đều phải nói rõ cho các bạn hiểu . Thứ nhất : Quỹ Dự Trữ Chiến Lược Kỹ Thuật Số là sáng kiến mang lại cho Dân Mỹ , giúp trả nợ công và đặt nước Mỹ là trên hết , nên các bạn đừng có mơ tưởng hay tư tưởng ăn bám vào tiền thuế của dân Mỹ như nhóm PNG , CVG . Nước Mỹ bây giờ không còn như ngày xưa luôn lo chuyện bao đồng rồi nhận lại là sự phản bội của các nước được nước Mỹ giúp . Nước Mỹ bây giờ là nước Mỹ của DÂN MỸ ! Pi Netw...